Mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thường có một tên gọi chính thức và một tên gọi do một nước hay dân tộc láng giềng gọi. Cụ thể, Việt Nam thường gọi Hoa Kỳ, hay Mỹ để ám chỉ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hoặc Hợp chúng quốc Mỹ (tiếng Anh: United States of America viết tắt là U.S. hoặc USA), gọi Nam Vang là quốc gia Campuchia, Nam Dương là Indonesia, Gia Nã Đại là Canada,… |
Bộ gõ Chamkey là ứng dụng gõ chữ Cham đa năng trên hệ điều hành Windows (Phiên bản dùng cho máy PC). Để dùng bộ gõ Chamkey, người sử dụng cần cài đặt font có dạng (EFEO Cam…) như một số font dưới đây: EFEO Cam Pajai, EFEO Cam Parik, EFEO Cam Kraong, EFEO Cam Panrang, EFEO Cam Panduranga, EFEO Cam AiaRu, EFEO Cam AiaTrang, EFEO Cam Kauthara, EFEO Cam Wijaya, EFEO Cam Amarawati, EFEO Cam IndraPura, EFEO Cam SimhaPura, EFEO Cam Udong, EFEO Cam Thrah, EFEO Cam Sankrit, EFEO Cam Campa,…Một số font này được kế thừa từ cộng đồng và thiết kế lại cho phù hợp với bộ gõ Chamkey. |
Nhân đọc bài viết tại sao "Chàm" lại bị coi là từ miệt thị? ở trên Facebook và xu hướng dùng từ “Chàm” hay bắt chước dùng từ “Chàm” này hiện nay đang quay trở lại ở một số Nick để thể hiện quan điểm của họ trong bài viết. Trong bài viết này, tôi xin phân tích và trình bày cách viết đúng danh xưng ở trên theo Akhar Thrah Cam (phiên âm Rumi Cam EFEO). |
Tiếng Cham là ngôn ngữ thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo (Autronesian), đại chi Malayo-Polynesian (Malay-đa đảo). Ở Việt Nam, tiếng Cham rất gần gủi với nhóm ngôn ngữ như: Jarai, Rhade, Cham, Churu, Raglai, Hroi, Aceh, Hainan,...được gọi chung là Chamic. Người Cham (thuộc Champa) có chữ viết riêng, chữ viết Champa cổ (akhar Hayap) được sử dụng từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ XV và chữ viết akhar Thrah sử dụng từ thế kỷ XVI đến nay. Ngoài ra chữ Hán được tìm thấy trên các con dấu hay trên các văn kiện liên quan đến triều đình Nhà Nguyễn; chữ viết Arab hay chữ Jawi được người Champa vùng Nam Bộ thường dùng để ghi giáo luật Islam giáo và văn hóa Islam giáo; ngày nay cộng đồng Cham, đa số cán bộ, sinh viên và trí thức Cham còn sử dụng chữ viết Rumi Champa 2000 (Putra Podam) để phiên tự hay phiên âm cho các tác phẩm văn học cũng như sử dụng trong giao tiếp hàng ngày. Bài viết này nhằm giới thiệu và phân loại chữ viết Chăm, các kiểu chữ viết Cham, phân tích sự hình thành và phát triển Rumi Cham và hệ thống Rumi Champa 2000, đồng thời nhằm góp phần bảo tồn và phát huy chữ viết Cham, chữ viết của nền văn minh dân tộc ở Đông Nam Á. |
Bốn phụ âm 1) Nga, nya, na, ma và 2). Ngâk, nyâk, nâk và mâk. Là những đặc trưng của ngôn ngữ Chăm mà tổ tiên ta đã xác định từ trước và bổ sung Ngâk, nyâk, nâk và mâk vào hệ thống bảng chữ cái Chăm để ghi những từ vựng có cách phát âm thay đổi tùy theo phương ngữ và vùng miền. |
Mục tiêu nghiên cứu chính của phần này là khảo sát thực trạng dạy và học tiếng S’tiêng, khảo sát và lựa chọn bảng chữ cái S’tiêng (mẫu tự chữ cái) thông qua cộng đồng người S’tiêng tại tỉnh Bình Phước. Căn cứ bảng chữ cái này, nhóm nghiên cứu đề xuất bảng chữ cái đã lựa chọn làm cơ sở để xây dựng chương trình dạy học tiếng S’tiêng ở bậc Tiểu học. |
Trong tiếng Chăm, Kau là đại từ nhân xưng làm đại từ chủ ngữ cho ngôi thứ nhất. Đại từ nhân xưng dùng để xưng hô trong giao tiếp. Ngôi thứ nhất thuộc về người nói, ngôi thứ hai thuộc về người nghe, ngôi thứ ba thuộc về người hoặc con vật hoặc đồ vật mà người nói và người nghe đề cập tới. Đại từ nhân xưng được làm chủ ngữ nên có thể gọi chúng là đại từ chủ ngữ. |
Trong hệ thống bảng chữ cái Chăm có hai chữ Sak Praong và Sak Asit. Sak Asit thường ghi những từ vựng mang tính ổn định hơn như: Suk, saksi, saai, suan, duisak, sakarai, bangsa, sakawi, sah sakei,... Sak Praong dùng để ghi những từ vựng có khi thay đổi tùy theo phương ngữ của vùng miền. Đó là đặc tính của ngôn ngữ Chăm. Do đó, Sak Praong có hai biến thể là: Sak và Thak. |
Người Chăm là một tộc người thuộc vương quốc Champa cổ, nay thuộc một trong các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tiếng Chăm là ngôn ngữ của người Chăm ở Đông Nam Á thuộc nhóm ngữ hệ Nam Đảo (Autronesian), đại chi Malayo-Polynesian (Malay-đa đảo). Ở Việt Nam, tiếng Chăm rất gần gủi với một số tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ như: Raglai, Churu, Jarai và Ê-đê. |
Bài viết “Vấn Đề Chữ Thrah Của Người Chăm” của tác giả Thập Liên Trưởng, trong cuốn sách “40 Năm nghiên cứu văn hóa Chăm”, do Nhà xuất bản Văn hóa Dân Tộc ấn hành năm 2015 giới thiệu nguồn gốc và hệ thống chữ viết Chăm, qua đó tác giả phân tích chi tiết tính ổn định của hệ thống chữ Thrah qua hệ thống ngữ âm, hệ thống từ vựng và cấu tạo từ, phân tích sâu sắc những bất ổn của chữ Thrah sau năm 1975 qua hệ thống phụ âm cuối, hệ thống âm chính cũng như sư bất ổn trong việc sử dụng từ ngữ. Qua đó để có cơ sở đánh giá việc dạy và học tiếng Chăm trong Nhà trường hiện nay, để có cơ sở đưa ra giải pháp nhằm bảo tồn ngôn ngữ và chữ viết Chăm không những trên cơ sở lý thuyết mà còn ứng dụng trên thực tiễn. |