Kỷ niệm 980 năm Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea) 1044-2024

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
Apr 1, 2024, 8:59 PM

Ngày 8 tháng 3 đã trở thành ngày hội của phụ nữ thế giới về quyền bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ trên toàn cầu. Ở Việt Nam, ngày 8 tháng 3 còn là ngày để tôn vinh những nét đẹp truyền thống của phụ nữ và những đóng góp to lớn của phụ nữ trên cả hai phương diện gia đình và xã hội “Giỏi việc nước, đảm việc nhà”. Vì vậy, kỷ niệm ngày quốc tế phụ nữ 8 tháng 3 là dịp để ôn lại truyền thống tốt đẹp của phụ nữ và những câu chuyện về những tấm gương phụ nữ oanh liệt xưa và nay mãi là đề tài thú vị dành cho mọi người. Bài viết này kể lại câu chuyện cảm động về một người phụ nữ Champa đó là Vương phi Mỵ Ê đã trẫm mình xuống sông để giữ trọn trinh tiết với chồng là quốc vương Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II), gây xúc động và cảm kích không chỉ cho cộng đồng Chăm, Việt mà cả quốc gia lân cận cho đến tận bây giờ.

 Theo nhiều bậc cao niên Jaoh yaw (kể chuyện xưa) truyền lại rằng, Mỵ Ê là sắc tộc Rhade, con của một học giả lừng danh thuộc khu vực Vijaya-Degar (Bình Định), ông là một học giả nổi tiếng và tinh thông Phạn ngữ (Sanskrit), Chăm ngữ (Hayap), Thái, Lào, … Mỵ Ê là con gái ngoan hiền, thùy mị, nết na, tạo hóa đã ban cho nàng không chỉ tố chất thông minh, trí tuệ sáng suốt mà cả nhan sắc tuyệt trần. Nàng Mỵ Ê rất giỏi cầm, kỳ, thi, họa, dệt vải, và sắc thái vương giả. Đặc biệt, tài năng ca múa, âm nhạc của nàng rất toàn diện khiến các thiếu nữ Champa thời ấy không ai bì kịp. Tin tức lan truyền về nhan sắc tuyệt trần và tài năng của nàng Mỵ Ê khắp vùng Vijaya. Từ đó, vua Jaya Simhavarman II (Sạ Đẩu) đã nạp nàng Mỵ Ê làm vương phi và hết sức yêu thương.

Vương Phi Mỵ Ê (tên trong Đại Việt Sử Ký Toàn thư), tên thật theo tiếng Urang Rhade (người Rhade) là H’Bia Mamih Ea (nghĩa công chúa vùng nước suối có vị ngọt).

H’Bia: là công chúa, nữ vương;

Mamih: là vị hơi ngọt;

Ea: trong tiếng Radhe là nước, trong tiếng Jarai nước là “Ia”, trong tiếng Chăm nước là “Aia”, trong tiếng Melayu nước là “Air”.

 

Hình 1. Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea), sắc tộc Rhade, con của một học giả lừng danh thuộc khu vực Vijaya-Degar (Bình Định). Ảnh: Minh họa.

 

Vương phi Mỵ Ê, Đại Việt Sử Ký Toàn thư ghi rằng:

“Mùa xuân, tháng giêng, năm Giáp Thân (1044), vua Lý Thái Tông phát khí giới trong kho ban cho các quân. Ngày Quý Mão, vua thân đi đánh Chiêm Thành, cho Khai Hoàng Vương (Nhật Tông) làm Lưu thủ Kinh sư (…). Ngày Giáp Thìn, quân đi từ Kinh sư, ngày Ất Tỵ, đến cửa biển Đại Ác, gặp lúc sóng gió yên lặng, đại quân qua biển dễ dàng, cho nên đổi tên Đại Ác làm Đại An. Đến núi Ma Cô có đám mây tía bọc lấy mặt trời. Qua vùng Hà Não có đám mây che thuyền ngự, theo thuyền mà đi hoặc ngừng. Ngày hôm ấy đến đóng doanh ở cửa biển Trụ Nha (có bản chép Trụ Thân). Ngày hôm sau đi, nhờ thuận gió, trong một ngày qua hai bãi Đại Tiểu Trường Sa. Đến cửa biển Tư Khách, có con cá trắng nhảy vào thuyền. Vua nghe tin Chiêm Thành đem quân và voi bày trận ở bờ nam sông Ngũ Bồ muốn chống cự quan quân. Vua truyền cho quân bỏ thuyền lê bộ, đem quân sĩ lên bờ bắc, thấy quân Chiêm đã dàn ở bên sông. Vua mới cắt đặt quân sĩ dựng cờ nổi trống, sang tắt ngang sông đánh. Binh lính chưa chạm mà quân Chiêm đã tan vỡ, quan quân đuổi chém được 3 vạn thủ cấp. Quách Gia Di chém được đầu vua Chiêm là Sạ Đẩu tại trận đem dâng. Đoạt được hơn 30 voi thuần, bắt sống hơn 5 nghìn người, còn thì bị quan quân giết chết, máu nhuộm gươm giá, xác chất đầy đồng. Vua tỏ ý cảm khái, xuống lệnh rằng: "Kẻ nào giết bậy người Chiêm Thành thì sẽ giết không tha".

Hình 2. Tượng Lý Thái Tông tại đền Lý Bát Đế. Ảnh: Wikipedia® 

 

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Tấm lòng ấy của vua cũng như tấm lòng của Tống Thái Tổ chăng? Truyền ngôi được lâu dài là phải lắm.

Mùa thu, tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi hát múa khúc điệu Tây Thiên. Sai sứ đi khắp các hương ấp phủ dụ dân chúng. Các quan chúc mừng thắng lợi.

Tháng 8, vua đem quân về. Tháng 9, ngày mồng 1, đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Khi đến hành điện Lý Nhân, sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong là Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân.

Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Phu nhân giữ nghĩa không chịu nhục, chỉ theo một chồng cho đến chết, để toàn vẹn trinh tiết của người đàn bà. Người làm tôi mà thờ hai vua tức là tội nhân đối với phu nhân. Vua khen là trinh tiết, phong làm phu nhân để khuyến khích người đời sau là đáng lắm.

Vua từ Chiêm Thành về, làm lễ cáo thắng trận ở miếu Thái Tổ, xong về ngự ở điện Thiên An, mở tiệc rượu làm lễ mừng về đến nơi. Ngày hôm ấy, bầy tôi dâng tù binh hơn 5 nghìn tên và các thứ vàng bạc châu báu. Xuống chiếu cho các tù binh đều được nhận người cùng bộ tộc, cho ở từ trấn Vĩnh Khang đến Đăng Châu nay là Quy Hóa, đặt hương ấp phỏng tên gọi cũ của Chiêm Thành.

Vua sai đặt cũi lớn ở Dâm Đàm (tức là Hồ Tây ngày nay), lấy con voi thuần của Chiêm Thành làm mồi nhử voi rừng vào trong cũi, vua thân đến bắt. Mùa đông, tháng 11, ban thưởng cho những người có công đi đánh Chiêm Thành: có công từ lục phẩm trở lên, thưởng áo bào gấm, từ thất phẩm trở xuống thưởng áo là (…) Năm Bính Tuất (1046), vua dựng cung riêng cho các cung nữ Chiêm Thành”.

Tương truyền cho rằng những buổi sáng sớm sương mù và đêm trăng thường nghe thấy có tiếng than ai oán ở khúc sông đó. Người dân bèn lập đền thờ cúng. Về sau vua Lý phong bà là hiệp chính nương phu nhân. Nhà Trần lại gia phong cho bà là trinh liệt tá lý phu nhân để biểu dương cái tiết đoan trinh của bà.

Hình 3. Nàng Mỵ Ê, sắc tộc Rhade, khu vực Vijaya-Degar (Bình Định). Ảnh: Minh họa.

 

Mười thế kỷ sau, cảm khái trước sự hy sinh bất tử, trinh liệt của vương phi Mỵ Ê trên dòng Châu Giang năm xưa, Thi sĩ Tản Ðà đã viết bài Từ Khúc nói lên “tâm sự của nàng Mỵ Ê” rằng:

“Châu Giang một dải sông dài,
Thuyền ai than thở một người cung phi!
Ðồ Bàn thành phá hủy,
Ngọa Phật Tháp thiên di,
Thành tan Tháp đổ
Chàng tử biệt
Thiếp sinh ly
Sinh ký đau lòng kẻ tử qui!
Sóng bạc ngàn trùng,
Âm dương cách trở,
Chiên hồng một tấm
Phu thê xướng tùy.
Ôi mây! Ôi nước ! Ôi trời!
Ðũa ngọc, mâm vàng, giọt lệ rơi.
Nước sông trong đục,
Lệ thiếp đầy vơi.
Bể bể dâu dâu khóc nỗi đời!
Trời ơi! nước hỡi! mây hời!
Nước chảy, mây bay, trời ở lại,
Ðể thiếp theo chàng mấy dặm khơi!

*

Sự trẫm mình xuống sông của vương phi Mỵ Ê để giữ trọn trinh tiết với chồng không phải là cốt truyện ngoại trong xã hội Champa vào thời cổ đại, mà là truyền thống nằm trong nền văn minh Champa theo chế độ mẫu hệ. Cũng vì quá đề cao sự trinh tiết và lòng chung thủy đối với chồng, nhiều bà hoàng hậu Champa thường xin lên giàn hỏa để chết chung với chồng. Lịch sử ghi lại việc hoàng hậu Champa lên giàn hỏa cùng với chồng là những thí dụ điển hình.

Sự giữ tròn trinh tiết và lòng chung thủy đối với chồng vẫn còn lưu truyền theo các quy định riêng trong hệ thống tổ chức gia đình và xã hội Chăm cho đến năm 1975. Đây là yếu tố cơ bản nằm trong hệ thống của chế độ mẫu hệ Chăm, trong đó đàn bà là người có quyền tuyệt đối trên tài sản của gia đình sau ngày đám cưới, từ con cái, gia súc, đất đai, nhà cửa và tiền bạc. Người đàn bà còn giữ trọng trách chuyển tải mọi giá trị tinh thần, phong tục tập quán và nề nếp gia đình cho thế hệ sau. Kể từ đó, phụ nữ Chăm trở thành biểu tượng cho bản sắc truyền thống của dân tộc. Trước năm 1975, nếu phụ nữ Chăm có thai trước ngày đám cưới là có tội vì đã làm tổn thương đến danh dự của gia đình và làm ô uế đến thanh danh thần linh trong thôn xóm, phải tế lễ một con súc vật để chuộc tội. Phụ nữ Chăm có chồng nước ngoài không được trở về định cư trong làng người Chăm, ...

Dù là một người đàn bà Chăm bình thường, họ phải gánh chịu bao qui luật khắc khe về sự trinh tiết đối với chồng và lòng trung thành đối hệ thống tổ chức gia đình và xã hội, thế thì người Champa cũng không ngạc nhiên khi vương phi Mỵ Ê trẫm mình xuống sông để giữ trọn trinh tiết với chồng.

Ngày nay, mặc dù ít khi tấm gương liệt nữ của Vương phi Champa Mỵ Ê nhắc trên các kênh truyền thông chính thống của Việt Nam nhân ngày 8 tháng 3 như Bà Trưng, Bà Triệu, nhưng Vương phi Mỵ Ê mãi sống trong lòng cộng đồng người Chăm và cả người người Việt đoan chính với sự ngưỡng mộ và kính trọng.

Kỷ niệm 980 năm ngày mất của vương phi Mỵ Ê (1044-2024), người Chăm hôm nay tưởng nhớ và lưu truyền về tấm gương liệt nữ trung trinh của Bà như một lời nhắc nhở đến các thế hệ con cháu về nét đẹp truyền thống của phụ nữ Champa trong quá khứ và vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.


Hình 4. Thành Đồ Bàn, quê hương của Mỵ Ê, sắc tộc Rhade, khu vực Vijaya-Degar (Bình Định). ANanh: Sưu t

 

Thăm lăng mộ nàng Mỵ Ê

Hình 5. Ngôi đình Việt thờ bà Chúa Chiêm Thành, Ngôi đình làng Phúc Mãn thờ thành hoàng là Đức Chúa Chiêm Thành hoàng hậu Mỵ Ê phu nhân. Làng cũng là nơi có lăng mộ của người phụ nữ Chiêm đã lấy cái chết để bảo toàn phẩm tiết gần 1000 năm trước…

1. Con đê hữu sông Hồng thuộc huyện Lý Nhân, Hà Nam trong cái nắng tháng Năm chói chang, trở nên dịu mát nhờ có một rặng tre xanh mướt chạy dọc chân đê  lao xao trong gió. Phía trong đê là làng Phúc Mãn, xã Phú Phúc. Bên ngoài đê, có một di tích đặc biệt, mộ nàng Mỵ Ê, vương phi của vua Chiêm Thành, tuẫn tiết gần 1000 năm trước.

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm Giáp Thân (1044), vua Lý Thái Tông đi đánh dẹp Chiêm Thành do vua Chiêm thần phục nhà Tống, không đi lại bang giao với nhà Lý suốt 16 năm, lại nhiều lần cướp phá biên giới. Hai bên dàn trận bên sông Ngũ Bồ, nhìn thấy quân  binh nhà Lý, chưa kịp giao chiến quân Chiêm đã sợ hãi mà tan vỡ, vua Chiêm là Sạ Đẩu (Jaya Sinhavarman II) bị chém tại trận.

Quân Việt bắt sống hơn 5 nghìn người… “Tháng 7, vua đem quân vào thành Phật Thệ (nay thuộc Thủy Xuân, Huế), bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu và các cung nữ giỏi múa hát điệu Tây Thiên… Ngày 1 tháng 9 đến phủ Trường Yên, có rồng vàng hiện ở thuyền ngự. Khi đến hành điện Lỵ Nhân, vua sai nội nhân thị nữ gọi Mỵ Ê là phi của Sạ Đẩu sang hầu thuyền vua. Mỵ Ê phẫn uất khôn xiết, ngầm lấy chăn quấn vào mình nhảy xuống sông chết. Vua khen là trinh liệt, phong là Hiệp chính Hựu thiện phu nhân”.

Việt Điện u linh, sách đời Trần viết về thần linh u hiển trong đền miếu Việt nội dung tương tự, có thêm lời đối đáp của Mị Ê với vua Lý Thái Tông và có tình tiết thấy Mị Ê tuẫn tiết “Thái Tông kinh dị, tự hối và cho người cấp cứu nhưng không kịp nữa. Chỗ ấy về sau, mỗi khi đêm vắng sông êm, trăng thanh sao sáng, thường nghe có tiếng đàn bà khóc than, dân trong thôn lấy làm lạ mới làm đơn xin lập đền thờ tự; từ đấy không nghe còn tiếng than khóc”.

Các bô lão dẫn chúng tôi qua con đường nhỏ hai bên là ao hồ đến một di tích và cho hay “Đây là miếu thờ và lăng mộ Đức Chúa Chiêm hoàng hậu, húy là Mỵ Ê mà dân làng chúng tôi vẫn hương khói từ thời Lý đến nay”. Trước đây cổng này có đôi câu đối: “Phách tại Châu Giang hoài Phật Thệ/ Hồn lưu Phúc Mãn vọng Chiêm bang” – Thể phách ở Châu Giang nhớ mãi thành Phật Thệ/ Hồn lưu lại với làng Phúc Mãn nhưng vẫn hướng về nước Chiêm. Tiếc rằng cổng mới xây lại, đôi câu đối đó đã không còn.

Lăng mộ được xây lại nhiều lần, bây giờ kiến trúc như một bệ thờ, chính diện có đề ba chữ Nho “Nữ trinh liệt”, xung quanh trang trí kiểu đạo Mẫu, phía trên là khám thờ có tượng Bà Chúa Chiêm.

Bà thủ nhang gầy gò, mấy chục năm gắn bó với di tích này cho tôi xem bài văn khấn, trong đó trùng điệp những câu chữ Hán Việt bị tam sao thất bản,  nhưng còn rất rõ các mỹ tự “Hiệp chính Hựu thiện phu nhân”, “Tiết liệt Phương danh”, “Chân Mãnh phu nhân”… mà các triều đại xưa sắc phong cho bà Mỵ Ê.

Tôi chợt nhớ đến lời Lý Tế Xuyên viết về bà trong Việt điện u linh: “Lòng trinh, tiết rắn, thường giữ tiếng vang trong gió oán mưa buồn, nộ khí ai thanh hằng gởi giận cho sóng dồi, nước cuốn, như than như khóc, nghìn xưa còn văng vẳng bên tai. Sông Lý Nhân lập đền, sắc phong chồng chất, tưởng phu nhân ở dưới suối vàng chắc cũng chẳng cho cái đó làm vinh dự” mà không khỏi ngậm ngùi, khi nghĩ đến những vương phi của vua Chăm được phụ thờ nơi đền tháp nguy nga trên đất Chăm Pa.

2. Ông Đỗ Đức Thà, một người tâm huyết với quê hương cho hay, làng này xưa có tên là làng Trục Mãn, Trục có nghĩa là tìm kiếm, Mãn là thỏa mãn, ghi lại sự kiện sau khi bà Mỵ Ê tuẫn tiết, vua đã cho người đi mò tìm thi thể vương phi. Nơi bà trẫm mình là cửa sông Châu Giang gặp sông Nhị Hà, nay gọi là ngã ba Tuần Vường.

Sóng đưa ngược thi thể bà về phía Bắc, thượng lưu sông Nhị Hà và dừng ở đây. Cho là việc tìm kiếm đã có kết quả mỹ mãn nên vua cho đặt tên làng là Trục Mãn, đến triều Nguyễn mới đổi thành Phúc Mãn.

Cũng có người nói, Trục Mãn xuất phát từ chuyện xưa vua Lý cho chục người Chiêm ở lại trông coi lăng mộ bà Mỵ Ê. Vậy là từ “chục người man” mà thành “trục mãn” cho có “chữ nghĩa” chăng… Dù cách giải thích nào thì tên làng cũng gắn với sự kiện bà Mỵ Ê tuẫn tiết.

Theo bản kê khai năm 1938 của hương hào, chức dịch của làng  theo yêu cầu của Viện Viễn Đông Bác cổ, thì sau đó ba làng Phúc Mãn, Lý Nhân và Nam Cầu đã lập miếu thờ bà cạnh phần mộ. Bản kê khai còn nêu rõ 40 đạo sắc phong từ triều Lý Thái Tông đến triều Khải Định, gia phong mỹ tự, giao dân thờ phụng  thần.

Mô tả về phần mộ, bản kê khai cho hay, “mộ giữ nguyên gò đất địa táng, (mối xông cao chừng một ngũ hai thước tây), vuông tứ bề, mỗi chiều hai ngũ. Xây tường bao quanh... Phía trước dựng hai gian miếu nhỏ, gọi là miếu Lăng… Cửa miếu quay về phía đông nam, có con sông nhỏ (sông Con) thông ra tận Tuần Vường. Trên gò cây cối cổ thụ quanh năm xanh tốt, rườm rà. Dân làng phụng thờ quanh năm, tám tiết không ai dám bác nhạo”. Ngày lễ, dân làng chọn trai gái thanh tân rước kiệu bát cống ra miếu Lăng rước thần về  đình làng để cầu đảo.

Ngồi trong miếu nhìn ra phía trước, ao hồ mênh mông, các bô lão nói xưa lăng miếu này như cồn đất nổi giữa sông nước, rất u tịch, linh thiêng. Bà thủ nhang cho biết những năm qua, rất nhiều người họ Đỗ từ Thái Bình, Nam Định tìm về đây, họ nói Đức Chúa Chiêm Hoàng hậu là bà cô tổ của họ. Dân làng thắc mắc, sao bà là người Chiêm mà lại là cô tổ những người họ Đỗ, hay bà là người Việt bị cống sang Chiêm?!

Tôi chia sẻ với bà con suy nghĩ của mình rằng, trong những lần bình Chiêm thắng trận, nhiều người Chiêm được đưa về Đại Việt, cho ở rải rác thành những làng Chăm. Ngay trong trận đánh năm 1044, vua Lý Thái Tông đã đưa về hơn 5 ngàn  người Chăm, có thể khi bà Mỵ Ê tuẫn tiết, nhiều người Chăm đó đã ở lại đây để tìm kiếm thi thể của bà hoặc được triều đình cho lập ấp tại vùng này. Do Nhị Hà đổi dòng nên có lẽ họ ở đất này sau dạt sang bờ bên kia… Dòng máu Chăm Pa đã hòa với dòng máu Việt, gốc tích xa mờ không ai còn rõ, nên mang họ Việt đấy thôi.

3. Cách lăng mộ bà Mỵ Ê chừng 500m, cũng phía ngoài đê, còn di tích cổng ngũ môn của một ngôi đền lớn, tên chữ là “Tiết liệt Phương danh từ”,  tên nôm là Đền Ba Làng do triều đình xây dựng, giao cho ba làng Phúc Mãn, Lý Nhân, Nam Cầu cùng phụng  thờ bà Mỵ Ê. 

Theo bản khai năm 1938, thì đây là ngôi đền có kiến trúc “ngoại quốc nội vương”, hậu cung 5 gian; tòa thiêu hương 3 gian, 8 mái, tòa tiền tế 7 gian. Hai bên có tả hữu vu, mỗi dãy 12 gian. Qua khoảng sân rộng 5 sào là đến cổng ngũ môn “xây dựng như một tòa thành”. Phía trên có ba chữ Đồng Nhật Nguyệt, hàm ý tấm gương tiết liệt của thần sáng cùng mặt trăng, mặt trời.

Ông Trần Kiên Quyết, trưởng thôn Phúc Mãn cho biết, trong hậu cung của đền, ở gian phía đông có một cái giếng, khi cúng tế, các cụ lấy quả bưởi khắc chữ Thọ lên đó rồi thả xuống giếng, sáng hôm sau quả bưởi nổi lên tận Tuần Vường, cách đây khoảng 6 cây số. Các cụ cũng kể lại rằng, đền rất linh thiêng, ai đi qua cũng phải bỏ mũ, xuống ngựa, vác cuốc, vác mai cũng phải bỏ xuống, đi nhanh qua đền.

Có những vị từ nơi khác đến, vẫn cưỡi ngựa qua đền thì bao giờ đến cổng thứ ba, ngựa cũng tự đập mặt vào cổng 5 cái rồi mới đi tiếp được. Chuyện linh ứng thì nhiều vô cùng. Dân làng kiêng cữ tuyệt đối tên húy và mỹ hiệu của thần, ai vô ý mạo phạm phải làm lễ tạ, nếu cố tình thì hương lý trình quan xét xử.

Hội đền xưa ba năm một lần quốc lễ, tổ chức từ ngày mùng 10 đến ngày 20 tháng Ba, triều đình cử người về tế. Ở Lý Nhân có nhiều nơi thờ bà Mỵ Ê như  Thanh Nga, Phú Cốc, Đại Hoàng, Phương Trà, Đồng Trữ… nhưng chỉ có đền Ba Làng mới có quốc tế.

Đứng trước cổng ngũ môn đồ sộ, nhìn ra đầm sen rộng, tôi thấy vị trí của ngôi đền thật đẹp. Xưa kia, đây là vùng chiêm trũng, ngôi đền nguy nga nổi trên biển nước mênh mông đẹp đẽ biết bao… Đền thờ Bà được Lý Nhân Tông cho xây dựng gọi là Đền Ba Thôn. Ngôi đền bị phá năm 1967, chỉ còn lại hậu cung.

Đến năm 1990, hậu cung bị phá để xây trụ sở Ủy ban xã. Đến nay vì nhiều lý do mà trụ sở UBND xã Phú Phúc đã chuyển sang chỗ khác. Ông Phạm Đình Long, Bí thư Chi bộ thôn Phúc Mãn chia sẻ rằng dân làng ao ước ngôi đền Ba Làng được Nhà nước quan tâm, phục dựng lại như xưa.

4. Di tích thờ bà Mỵ Ê tương đối trọn vẹn hiện nay ở Phúc Mãn là đình làng. Đình được xây dựng năm Tự Đức 28 (1875), thờ ba vị Thành hoàng là Đức Chúa Chiêm hoàng hậu Mỵ Ê phu nhân, Bản thổ Kỳ quân Lâm đô thống đại vương và Thuận Mỹ công chúa. Riêng hai vị sau không còn sự tích, dân làng chỉ còn nhớ mỹ hiệu để cúng tế.

Trong đình còn giữ được nhiều cổ vật quý giá. Trong hậu cung, chính giữa thờ bức tranh kính vẽ cảnh sông nước, lâu đài, không rõ có phải vẻ cảnh nơi bà tuẫn tiết hay không… Hai bên có hai tấm bảng sơn son thếp vàng rất tinh xảo.

Bảng cao chừng ba gang tay, rộng hai gang tay, trên chạm lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh có hoa văn, đều thếp vàng. Ông thủ từ Đỗ Đình Tiên thú thật là sau nhiều năm đứt quãng việc cúng tế, đến nay cũng không còn rõ hai tấm bảng này xưa các cụ dùng làm gì, chỉ biết luôn có tấm lụa che.

TS Nguyễn Minh San, trong bài “Nữ thần trinh tiết Mỵ Ê” đăng Tạp chí Văn hiến cho biết: Việc cúng tế thờ phụng bà Mỵ Ê có tế lễ hàng năm và tế lễ lớn ba năm một lần. “Dịp này, tại các đền thờ bà đều tiến hành vẽ tranh bà thiếp vàng trên lụa mộc, tựa như hình ảnh. Đúng giờ Tý ngày 8 tháng Ba, tổ chức nghi lễ thiết đàn, thỉnh tướng, khai khuông điểm nhãn, sau đó đem thờ”- do đó, có lẽ hai tấm bảng son này để vẽ tranh thờ. Trong bản khai năm 1938 của làng cũng có ghi về lễ nghi này rằng “Đến ngày 8 tháng Ba, giờ Tý dâng mạc (màn) che ảnh của Chúa Chiêm bằng lụa”.

Hiện vật quý giá nữa hiện đang thờ tại đình Phúc Mãn là khám thờ cỡ lớn, sơn son thiếp bạc chạm phượng và hạc, cùng bức đại tự đề “Hậu đức chí nhân”, phía trên chạm lưỡng long chầu nguyệt; một bức hoành đề “Tiết liệt phương danh từ”; một cuốn thư kiểu dáng độc đáo làm thời nhà Nguyễn khắc bài minh ca ngợi bà Mỵ Ê. Đây là những cổ vật thuộc về đền Ba Làng, sau khi phá dỡ đền người ta chuyển sang chùa.

Năm 2015, đình được tu bổ, dân làng mới mang về đình. Đình cũng tiếp nhận được 6 đạo sắc phong từ triều Tự Đức đến triều Khải Định do nhà chùa lưu giữ nhiều năm qua. Đình còn có bộ bát bửu và nhiều biển gỗ quý đề “Lịch triều phong tặng”, “Nguyễn triều phong tặng”, “Tiết liệt phương danh – Minh Mệnh niên chế phong”.

Hiện nay, đình Phúc Mãn đã được xếp hạng Di tích cấp tỉnh, đây là tiền đề để ngôi đình được bảo tồn, tu tạo xứng đáng với giá trị lịch sử, văn hóa quý báu. 

Bà Mỵ Ê từ thân phận một người phụ nữ Champa bị bắt rời khỏi đất nước, đã trở thành liệt nữ, vì đã lấy cái chết để bảo vệ phẩm tiết của mình. Sự hy sinh ấy rất phù hợp với chuẩn mực Nho giáo nên được thờ phụng, sắc phong và nhiều người làm thơ ca tụng.

Nhưng có lẽ không chỉ có như vậy, việc thờ phụng bà Mỵ Ê và có đền thờ cả vua Sạ Đẩu, còn mang tinh thần hòa giải rất cao. Người dân Việt và thời gian đã khiến họ từ phía thù địch trong lịch sử trở thành phúc thần linh thiêng, phù hộ cho dân an quốc thái, điều đó thật đặc biệt. Vì thế, nghiên cứu đầy đủ về tín ngưỡng thờ bà Mỵ Ê, tôn tạo những di tích có liên quan là một nhu cầu mang tính lịch sử và tâm linh hiện nay.

Ghi chép của Nguyễn Phan Khiêm (Báo Pháp Luật Việt Nam)

 

Một số bài thơ của một số tác giả ca ngợi Vương phi Mỵ Ê

- Vịnh Mỵ Ê (Hoàng Cao Khải)

Thuyền rồng không dựa, dựa thuyền chài,
Khắng vó vì chưng trót một hai.
Tiết nghĩa mảnh chiên, trời ấm lạnh,
Cương thường giọt lệ, nước đầy vơi.
Chứng minh đã có mười phương Phật,
Sống thác cùng nhau một giống Hời.
Sử sách nghìn năm ghi chép đó,
Thương ai mà lại thẹn cho ai.

Năm Giáp Thìn (1044), vua Thái Tông nhà Lý kéo quân vào đánh nước Chiêm Thành, phá kinh đô Phật Thệ, giết quốc vương Sạ Đẩu và bắt vương phi Mỵ Ê đem về nước. Đến sông Lý Nhân, Thái Tông đòi Mị Ê sang hầu bên thuyền ngự. Mỵ Ê giữ tiết, không chịu sang, lấy chiên quấn khắp mình rồi lăn đùng xuống nước mà tự tử. Hiện nay ở phủ Lý Nhân tỉnh Nam Định vẫn còn đền thờ.
Bài thơ vốn được đăng trên Đông Dương tạp chí kèm thêm lời bình của tác giả:

 

Vì chưng:
Giữ dạ kiên trinh;
Nhớ lời gắn bó.
Người thì phải theo nhau một giống;
Gái không lẽ thờ đến hai chồng?

Thế thì đành:
Lấy chiên mà quấn mảnh thân tiết nghĩa;
Dẫu khi ấm khi lạnh cũng phó mặc cho trời.
Lấy máu và hoà giọt lệ cương thường;
Dẫu hoặc đầy hoặc vơi, cũng để trôi với nước!
Ai có biết, dẫu ai không có biết, chứng minh đã có Phật mười phương;
Sống cùng nhau, thì thác phải cùng nhau, chung thuỷ cho tròn Hời một giống.

Than ôi!
Trinh tiết là đức riêng của gái;
Khen chê là lẽ phải của đời.
Thương cho vàng đá dạ người;
Thẹn cho những kẻ ép nài mưa mây.
Nghìn năm sử sách còn đây!

 

- ĐỀ Mỵ Ê từ (Nguyễn Khuyến)

Đề Mị Ê từ

Hận bất mấn tu báo quốc thù,
Thẩn tương chi phấn hà nhân tu.
Bách niên tâm sự bằng thiên tố,
Nhất tự hồn trinh mịch thuỷ du.
Minh yết giang lưu tuỳ biệt oán,
Đê mê hoa sắc đới tàn sầu.
Độ đầu cổ miếu xâm hương hoả,
Quản đắc dư phương vạn cổ lưu.

Dịch nghĩa

Giận chẳng phải là giới mày râu để báo thù cho nước,
So với hàng phấn son nào thẹn với ai.
Nỗi niềm trăm năm nhờ trời nói giúp,
Hồn mang một chữ trinh tìm xuống nước chơi.
Dòng sông thở than trôi theo nỗi ai oán ly biệt,
Sắc hoa cỏ mơ hồ mang nỗi buồn tàn phai.
Hương khói quyện miếu cổ đầu bến sông,
Giữ được tiếng thơm lưu đến muôn đời.


Tuyển từ Yên Đổ tiến sĩ thi tập (VHv.1864).
Mỵ Ê là vợ vua Sạ Đẩu nước Chiêm Thành. Năm 1046, Lý Thái Tông đem quân đánh dẹp phương Nam thường bị Chiêm Thành quấy rối, bắt được Mị Ê. Khi thuyền về đến Châu Giang (huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam), vua cho vời Mị Ê sang thuyền rồng, nàng nhảy xuống sông tự tử để giữ trinh tiết.

 

- Trinh liệt chân mãnh phu nhân (Vũ Văn Lý)

Lý gia nhị đế phạt Chiêm thần,
Sạ Đẩu khinh công chí tử vân.
Bố Chính thử châu chung cổ hận,
Mị Ê diễm sắc Lý giang lân.
Vật khi di nữ vô tri sỉ,
Cố bái vi thần giáo hậu nhân.
Mục kiến kim lâu quyền quý giả,
Dâm thân hà dị nhất trư thân.

Dịch nghĩa

Thuở Lý nhị đế đánh vào đất Chiêm,
Sạ Đầu khinh thường chống lại nên bị chết trận.
Trên đất châu Bố Chính này để hận suốt đời,
Đáng thương Mị Ê vì sắc đẹp phải trầm mình ở dưới sông Lý Nhân.
Chớ coi thường cô gái mọi rợ không biết liêm sỉ,
Cho nên tôn làm thần để khuyên dạy người sau.
Hiện tại bao kẻ quyền quý ở chốn lầu vàng,
Có tấm thân dâm tiện khác gì thân con lợn.


Bài thơ được chép trong sách Thiên gia thi tuyển của Nguyễn Đức Huy ở xóm Bình An, xã An Nhân, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương.

Tháng giêng năm Giáp Thân (1044), Thái Tông đánh Chiêm, trong trận Ngũ Bồ chém đầu chúa Chiêm Thành Sạ Đẩu, tháng 7 đánh thành Phật Thệ bắt vợ cả, vợ lẽ của Sạ Đẩu, cùng các cung nữ giỏi múa hát khúc đem về nước. Khi đi đến sông Lý Nhân (tức sông Hoàng ngày nay) sai trung sứ và thị nữ vào bắt ép Mỵ Ê là vương phi tới hầu ở thuyền ngự. Mỵ Ê phẫn uất nhảy xuống sông tự vẫn. Đền chính thờ Mỵ Ê ở hai xã Lý Nhân, Lâm Cầu thuộc đất Hà Nam, được dân địa phương dựng lên sau khi Mỵ Ê tự trầm mình.

 

- Mỵ Ê (Đặng Minh Khiêm)

Quốc phá gia vong hận vị hôi,
Nhẫn văn trung sứ chiếu tần thôi.
Lý chiên nhất nhập Hoàng giang thuỷ,
Đa tạ quân vương tống tử lai.

Dịch nghĩa

Nước mất nhà tan, mối hận còn chưa nguôi
Nỡ lòng nào nghe trung sứ mang chiếu liên hồi giục vào hầu vua
Quấn khăn lao xuống dòng nước sông Hoàng
Đa tạ đức vua đã mang lại cho cơ hội được chết


Theo Lý kỷ, Mỵ Ê là vương phi của Sạ Đẩu chúa nước Chiêm Thành. Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành, chém chết Sạ Đẩu tại trận, bắt cung phi thê thiếp của y trở về nước. Khi đi đến sông Lý Nhân (tức sông Hoàng ngày nay, tại đó có dựng đền thờ) sai trung sứ và thị nữ vào bắt ép Mỵ Ê tới hầu ở thuyền ngự. Mỵ Ê phẫn uất, lấy khăn trắng (bạch huyền, có bản chép là bạch chiên - chăn trắng) quấn chặt lấy người rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Nay xét thấy nước Chiêm Thành vốn không có chăn. Trong câu phá của bài thơ có chú rằng: chiên là tên loại cây dùng để làm ra vải. Người nước ta cũng gọi váy của người Chiêm là chiên, vậy thì nàng Mỵ Ê quấn váy trắng vào người nhảy xuống nước cũng có lý.

 

- Đề miếu bà Mỵ Ê ở hành cung Lý Nhân (Trần Mỹ)

 Văng vẳng bên tai sứ điệp mời
Nửa thương nửa sợ dạ bồi hồi
Lượng trên rộng hẹp dầu hai ngả
Thân gái tôi đòi chỉ một thôi
Muôn dặm quê nhà tin nhạn vắng
Nghìn tầm đáy nước tiếng thơm rơi
Cô Trân bà Phật nào đâu nhỉ?
Cân đó đem Kinh đọ với Hời

 

LINK: Tham khảo liên quan- hình ảnh Sưu tầm

1. Lễ Đầu Năm Tại Miếu Vương Phi Mỵ Ê ...

2. Thành Đồ Bàn: http://youtu.be/i9_MPFbSmtg