#

Theo Ts. Putra Podam, nếu Hoàn Vương (Huánwáng) tồn tại ở phía nam Champa bao gồm các địa khu Vijaya, Kauthara và Panduranga từ năm (757-859), thì có nghĩa rằng Hoàn Vương cũng được xem là tiền thân của Panduranga. Do vậy, Panduranga phải được được biết đến đầu tiên từ năm 757 và tồn tại đến hết triều vương Panduranga là vua Po Saot (Bà Tranh) vào năm 1692. Năm 1693 đánh dấu danh xưng Panduranga đã được Việt Nam đổi tên Thuận Thành Trấn (1693 - 1832). Hoàn Vương (Huánwáng) độc lập từ năm (757-854) tồn tại ở phía nam Champa (gồm các địa khu Vijaya, Kauthara và Panduranga), kinh đô Hoàn Vương mang tên Virapura (Hùng Tráng Thành) phải đặt tại xung quanh Kauthara, chứ không phải đặt tại Panduranga.

#

Theo các nhà nghiên cứu Pháp (Pgs. Po Dharma, Gs. P-B Lafont, Ts. B. Gay), Champa không phải là vương quốc dành riêng cho dân tộc Chăm, mà là một quốc gia đa chủng, tập trung những cộng đồng tộc người nằm trong biên giới chính trị của quốc gia này, chạy dài từ phía bắc Quảng Bình cho đến Biên Hòa, bao gồm cả khu vực Tây Nguyên, như người Jrai, Rhade, Churu, Raglai, Hroi, Bahnar, Sedang, Stieng, Ma, … trong đó có người Chăm sống ở đồng bằng. Champa một tên gọi có nguồn gốc từ Ấn Độ, được đặt tên cho vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ II gồm 5 tiểu bang: Indrapura (Đồng Dương), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Kauthara (Phú Khánh gồm Phú Yên và Khánh Hòa), và Panduranga (Thuận Hải gồm Ninh Thuận và Bình Thuận).

#

Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri) vị vua Islam Champa đầu tiên đặt quyền lực tại Vijaya và nhiều lần bình ổn xứ Panduranga. Chính vua Po Aluah mà tác giả Ts.Po Dharma tuyên bố là patao jiéng éng hay patao éngkat “vua tự sinh ra”, lên ngôi năm 995 (thế kỷ 10) đóng đô ở Bal Sri Banây (Nại, Ninh Chữ, Phan Rang), sau đó ngài trở về thế giới linh thiên (nao meng rup). Điều này khẳng định Po Aluah mà Ts.Po Dharma tuyên bố “vua tự sinh ra” ở Panduranga, chính là Po Aluah (Yang Puku Vijaya Sri) vị vua Islam Champa đầu tiên tại Vijaya thuộc triều vương thứ bảy (991-1044): Vijaya-Chiêm Thành (Champa). Dưới thời Yang Puku Vijaya Sri (Po Aluah), đạo Islam cùng với đạo Hinduism phát triển mạnh mẽ. Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều phái đoàn sang Trung Hoa thông sứ với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi bị Đại Cồ Việt tấn công.

#

Thời kỳ này, một số gia đình thuộc hoàng tộc người Melayu gốc Nam Đảo như Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqid Amr Ali đã trốn chạy khỏi chính sách cai trị khắc nghiệt của tiểu vương Java, được tể tướng Champa là Po Klung Pilih Rajadvara nhận tị nạn. Từ đó, Islam (Hồi giáo) chính thức được phổ biến trong chốn hoàng gia Champa thời vua Indravarman III. Qua một thời gian ngắn, tôn giáo Islam (Hồi giáo) được đông đảo quần chúng Champa tin theo và cải đạo từ Hinduism sang Islam. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền bá nền văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách điêu khắc cho nghệ nhân Champa. Cũng giai đoạn này, thần dân Champa đã nắm vững kỹ thuật đi biển, biết cách giao lưu buôn bán, giao hảo tốt với các quốc gia lân bang như Trung Hoa và Java. Đây là thời kỳ đầu tiên cũng như sớm nhất tôn giáo Islam được truyền bá vào Champa và trong chốn hoàng gia triều đại vua Indravarman III.

#

Theo các nhà nghiên cứu Pháp (Pgs. Po Dharma, Gs. P-B Lafont, Ts. B. Gay), Champa không phải là vương quốc dành riêng cho dân tộc Chăm, mà là một quốc gia đa chủng, tập trung những cộng đồng tộc người nằm trong biên giới chính trị của quốc gia này, chạy dài từ phía bắc Quảng Bình cho đến Biên Hòa, bao gồm cả khu vực Tây Nguyên, như người Jrai, Rhade, Churu, Raglai, Hroi, Bahnar, Sedang, Stieng, Ma, … trong đó có người Chăm sống ở đồng bằng. Champa một tên gọi có nguồn gốc từ Ấn Độ, được đặt tên cho vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ II gồm 5 tiểu bang: Indrapura (Đồng Dương), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Kauthara (Phú Khánh gồm Phú Yên và Khánh Hòa), và Panduranga (Thuận Hải gồm Ninh Thuận và Bình Thuận).

#

Năm 980, vua Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) lên ngôi Hoàng đế nước Đại Cồ Việt. Kể từ đó, mối bang giao giữa Champa và Ðại Cồ Việt trở thành mối quan hệ giữa hai đối tượng thù địch. Đầu năm 982, vua Đại Cồ Việt là Lê Hoàn (Lê Đại Hành), dẫn đại quân tiến đánh vào Indrapura. Đây là cuộc Nam chinh đầu tiên của người Việt tấn công vào đất Champa. Vua Champa là Paramesvaravarman I tử trận ngay tại cửa thành, chấm dứt triều đại Indrapura. Quân xâm lược cướp phá một thành phố ở Bắc Champa, bắt cóc hàng trăm nhạc công, vũ công trong hậu cung, cướp bóc nhiều vàng, bạc, các đồ vật quý giá, bắt hàng ngàn tù binh, trong đó có một nhà sư Ấn Độ tên Thiền Trước Tăng (Bhiksu). Lãnh thổ Bắc Champa bị chiếm đóng từ 982 đến 983.

#

Theo ý kiến riêng của Ts.Putra Podam, cuộc khởi nghĩa của nhân vật anh hùng lịch sử Champa, Katip Sumat chống triều đình Huế là thể hiện tinh thần dân tộc bất khuất, cao cả trước chứng kiến mãnh đất tổ tiên (Champa) bị quân xâm lược chiếm đóng (triều đình Huế). Katip Sumat, mặc dù không phải dân tộc Champa sống trên mãnh đất Panduranga (Champa), mà Katip Sumat là dân tộc Champa đã từng sống tị nạn trên mãnh đất Cao Miên (Kampuchea). Sao khi chứng kiến Champa bị tiêu diệt vào năm 1832, ông dám đứng ra tổ chức và vận động nhân dân từ Cao Miên đến Panduranga để chống triều đình Huế, trong đó có nhiều nhân vật quan trọng đã từng lãnh đạo vương triều Panduranga (Champa) tham gia. Theo Ts.Putra Podam, lãnh tụ Katip Sumat lần đầu tiên đã áp dụng chủ thuyết Thánh chiến Hồi giáo (Jihad) tại Đông Dương trong cuộc đấu tranh của nhân dân Champa chống triều đình Huế là cách để kêu gọi các thành viên Hồi giáo tại Makkah (Kelantan), Melaka, Johor, Kedah, Kampuchea và Thái Lan, … tham gia phong trào theo tinh thần Hồi giáo.

#

Năm 1471, chiến thắng thành Vijaya (Đồ Bàn) của vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) là hồi chuông báo động cho sự suy thoái của thời hậu Lê, kéo theo sự phân tranh giữa chúa Trịnh ở miền bắc và chúa Nguyễn ở miến nam. Năm 1569, Nguyễn Hoàng quyết định hình thành một triều đại riêng trên lãnh thổ Champa bị chiếm đóng. Vì không đủ tiềm lực tiến quân ra bắc chống chúa Trịnh, Nguyễn Hoàng chỉ còn cách mở cuộc Nam Tiến về phía nam trên lãnh thổ Champa. Năm 1611, nhà Nguyễn xua quân xâm chiếm Phú Yên và năm 1653 đặt nền đô hộ trên tiểu vương quốc Kauthara (Khánh Hòa). Năm 1692, nhà Nguyễn tấn công Panduranga-Champa, thay đổi danh xưng “Panduranga” thành “Trấn Thuận Thành” và thành lập phủ Bình Thuận đầu tiên trên lãnh thổ của vương quốc này, tập trung những cư dân người Kinh sinh sống ở Champa, cư dân này là công dân của triều đình Huế.

#

Theo sử liệu của người Champa và các sử liệu Việt Nam và Tây phương để lại, Po Krung Garai (Po Klong Garai: Thủ lĩnh Rồng) là nhân vật có thật trong lịch sử Champa. Ngài Po Krung Garai là vị vua thứ tư trong triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Vijaya-Degar của Vương quốc Campa. Trong quá trình trị vị, với tài năng, đức độ và văn thao võ song toàn, ông không chỉ có công đánh giặc ngoại xâm, kiến thiết đất nước Champa trong lịch sử mà còn có công lớn cho công trình thủy lợi ở tiểu bang Vijaya-Degar và Panduranga. Hậu duệ Ngài Po Krung Garai là R'cam Mal, theo cách gọi của tộc người Rhade và Jarai tại vùng Vijaya- Degar để gọi hoàng tử Harijit, con của hoàng hậu Gaurendraksmi, lên ngôi lấy vương hiệu là Jaya Simhavarman III, mà tài liệu Trung Quốc gọi là Pou Ti, tức Raja Kembayat (đức vua Chế Mân) vua Islam (Hồi giáo) trong quyển "Bidasari and The Djinn" của Ninot Aziz, là vị vua thứ 12 của triều đại thứ 11 vào thế kỷ 13, đã cho xây dựng Tháp Po Klong Garai tại Phan Rang (Panduranga) vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14.

#

Năm 2014, được sự giúp đỡ của Pgs.Ts. Po Dharma viết đề cương nghiên cứu chuyên ngành lịch sử, Putra Podam tiếp tục nghiên cứu lịch sử tại Đại học UM (University Malyasia). Thầy hướng dẫn là Gs. Danny Wong (người Hoa chuyên ngành lịch sử tại đại học UM). Danny Wong Tze Ken là tác giả cuốn sách “The Nguyen and Champa during 17th and 18th Century - A Study of Nguyen Foreign Relations”, được Champa nhận in sách và được đăng trong trang báo điện tử Champaka số 5. Thời gian đó, Ts. Nicolas Weber đang giảng dạy tại trường UM (người cùng làm việc với Pgs.Ts. Po Dharma tại Malaysia) Năm 2015, tại đại học UM, Putra Podam phải học thêm 3 môn liên quan chuyên ngành lịch sử và 1 môn tiếng Mã Lai. Riêng môn học tiếng Mã Lai, Putra Podam không thi qua phần viết tiếng Mã Lai, và nhiều lý do khác nên Putra Podam xin thôi theo học lịch sử tại đại học UM, và cũng từ đó Putra Podam và Gs. Danny Wong Tze Ken cũng ít khi gặp nhau.