Chữ Jawi là thuật ngữ khác để chỉ dạng chữ Ả Rập (Arabic) nhưng được thêm bớt một số chữ cái trong hệ thống chữ Ả Rập, để ghi phiên âm cho người Melayu Islam bản địa. Người Jawa, thường để chỉ nhóm người ở ba giai đoạn chính khác nhau. Thời kỳ đầu, khi nói đến người Jawa thì một số nhà khoa học thường nghĩ đến những người theo Islam có da ngâm đen như Islam Trung Đông, Indian, Bangladesh, Indonesia, Malaysia, … Thời kỳ thứ hai, Jawa chỉ giới hạn cho người Islam tại Indonesia, Malaysia, hay Jawa Kur gồm Islam Chăm Cambodia và Chăm Châu Đốc. Thời kỳ thứ ba, người Jawa được xác định cụ thể là một dân tộc ở Indonesia và quê hương của người Jawa là phần trung và đông của đảo Jawa. Người Jawa có dân số khoảng 100 triệu người, là dân tộc đông nhất ở Indonesia và có một nền lịch sử rực rỡ. Khi nói đến chữ Jawi, lúc đầu thì nhiều người hiểu lầm là chữ của người Malay, nhưng thực tế chữ Jawi đầu tiên xuất hiện sau thời kì vương quốc Majapahit tan rã và được các học giả người Jawa ở đảo Jawa cải tiến để ghi âm tiếng Jawa, từ đó được mang tên chữ Jawi. Bia kí cổ nhất của chữ Jawi là bia kí Terengganu, được xác định niên đại vào khoảng năm 1300. Chữ Jawi ngày nay được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Melayu ở Đông Nam Á, trong đó có người Chăm ở Việt Nam và Campuchia. |
Chế Bồng Nga, vị vua thứ ba của Vương triều thứ 12 liên bang Champa đóng đô ở Thành Đồ Bàn. Vijaya-Degar là tiểu quốc của người Degar Tây Nguyên và Champa. Tên gọi của địa khu Vijaya-Degar, còn được người Trung Hoa gọi là Tân Châu nhằm phân biệt với Cựu Châu là vùng Amaravati ở phía bắc sau khi Champa chiếm kinh đô và chuyển từ thành kinh đô từ vùng Amaravati về Vijaya-Degar. Cùng với các địa khu khác như Panduranga, Kauthara và Amaravati thì Vijaya-Degar là một trong bốn tiểu quốc từ lúc hình thành thống nhất giữa Degar Tây Nguyên và Champa. |
Công chúa thuộc dòng Rhade Kpă (Kpă, Kapă hay Kapak là chính dòng của tộc người Rhade). Hiện nay cư trú quanh thành phố Buôn Ama Thuột (Ban Me Thuot - Palei Amaik Ja Thuot), Krông Ana, Krông Pač, Čư̆ Mgar. Họ chính của Rhade Kpă là: Niê, Buôn Yă (Byă), Êban, Niê Kdăm,… Trong hành trình đến địa khu Vijaya Degar để tìm thuốc chữa bệnh hiếm muộn cho hoàng hậu Bia Sucih (Bia Than Cih), vua Po Rome đã tìm gặp thủ lĩnh Rhade, cũng chính nơi đây vua Po Rome đã gặp một công chúa xinh đẹp, thùy mị, nết na, …. Po Rome say đắm bởi vẻ đẹp quyến rũ của nàng H'Drah Hajan Kpă và quyết định đưa công chúa về kinh thành. Sau khi xong thủ tục lễ cưới của Hoàng gia (Lakhah hay Bikuôi ung mŭ), vua đã phong cho bà H'Drah Hajan Kpă làm thứ hậu. Bà cũng là hoàng hậu duy nhất sinh được con cái cho vua Po Rome, và bà là người duy nhất trong số các hoàng hậu của vua Po Rome vào dàn hoả thiêu chết theo chồng theo phong tục của Hindu. Ngày nay để tưởng nhớ đến nàng công chúa H'Drah Hajan Kpă (thứ hậu Bia Than Can) người dân trong vùng gọi ngọn núi Čư H’Mŭ (Čư Hơ Mŭ, Čư Mŭ) là ngọn “núi Bà” hay “núi H'Drah Hajan Kpă”. |
- Theo Po Dharma, Chế Bồng Nga là người gốc Vijaya, cụm từ phiên âm từ Phạn ngữ = Sri + varman, danh xưng này thiếu một tiền tố, do đó người ta không đoán được ngài tên là Sri Inravarman? Hay Sri Jayavarman? lên ngôi vua từ năm 1360 đến1390. Sau ngay từ trần của Chế Bồng Nga vào năm 1390, thì tướng La Ngai là người nối ngôi vua Champa đóng đô ở Vijaya. - Ngược lại, Po Binnasuar (Po Binthuar) là người gốc làng Aia Radak, Panduranga có bà hoàng hậu tên là Bia Soy. Ðền của Po Binnasuar và Bia Soy vẫn còn ở làng Bal Riya (Bính Nghĩa)-Ninh Thuận. Po Binnasuar lên ngôi từ năm 1316 đến 1361 hay 1328-1373 tùy theo dị bản. Sau ngày từ trần của Po Binnsuer, thì Po Parican là người nối ngôi ở Panduranga năm 1361 hay 1373. |
Thế kỷ 15, tại Panduranga, giai đoạn Champa và Malaysia có mối quan hệ thân thiết, cuộc viếng thăm của vua Po Kabrah (1460 -1494), vua ảnh hưởng Hồi Giáo (Islam) đã đến Malaysia ngoại giao lân bang với quốc gia cùng tộc người, và ngài đã hứa gả em gái là công chúa Po Sah Ina kết hôn cùng Po Haniim Per, người Malay theo Islam (Po Dharma, 1999, p.5). Năm 1905, E. Durand, linh mục người Pháp đã từng sinh sống lâu năm tại Bình Thuận có viết một bài khảo luận về Po Sah Ina, mang mã số CAM13 (Notes sur les Champa, BEFEO, 1905, trang 373-377), cho biết Po Sah Ina là chị của vua Po Kathit hay Po Kasit (1421-1448 hoặc 1433-1460 tùy theo dị bản). Trong khi đó mã số: CM33 thì cho rằng Po Sah Ina là con của vua Po Kathit hay Po Kasit (1421-1448 hoặc 1433-1460 tùy theo dị bản). |
Năm 2024 Tây lịch, tức là năm 1445 Hồi lịch, các Giáo sĩ (Acar) và các tín đồ Bani (tức tín đồ theo đạo Islam trên thế giới nói chung) và 173 nhánh Hồi giáo trên toàn thế giới nói riêng đã bước vào tháng Ramadan (Ramawan) vĩ đại. Đối với dân tộc Chăm dù là Bani Awal, hay Bani Ahier; Agama Awal hay Agama Ahier,... tất cả đều phụng sự Po Allah, do đó, đây là tháng người Chăm không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, mà hãy sẵn lòng đến với Thánh đường (Magik), đến với Po Allah để cầu nguyện (Du-a, Da-a). Đây là tháng Linh Thiêng, tháng mà Po Allah đã ban Thiên kinh Quran - Koran vĩ đại đến với chúng ta. |
Sau khi Champa bị ti*êu diệt, ngày 25/8/1883, một hiệp ước mang tên Harmand do người Pháp ký với triều đình Huế, cho rằng các dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực Đồng Nai, Đà Lạt, Darlac, Pleiku, Kontum không còn là công dân Việt Nam mà trực thuộc vào chính quyền Pháp ở Nam Kỳ, theo đó mọi văn bản về thuế, luật lệ và hành chánh đều được viết bằng tiếng Chăm và tiếng Pháp thay vì chữ Hán. |
FULRO: Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Sắc Tộc Bị Áp Bức (tiếng Pháp: Front Unifié de Lutte des Races Opprimées) là liên minh chính trị, quân sự của các sắc tộc Cao Nguyên Trung phần, Chăm, Khmer, tồn tại từ năm 1964 đến 1992. Tổ chức này chủ trương đấu tranh cho quyền tự quyết của các sắc tộc thiểu số, thực hiện chiến tranh du kích để ly khai vùng Tây Nguyên khỏi lãnh thổ Việt Nam. |
Po Sah Ina (Công chúa Bàn Tranh), có ngôi đền thờ cổ tại xã Long Hải, đảo Phú Quý, mà người dân địa phương gọi là Đền miếu Bà Chúa. Ngôi miếu được Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 28-1-2015. Hàng năm vào ngày Mùng 3 tháng Giêng (âm lịch), người dân địa phương tổ chức lễ rước sắc Bà Chúa rất trang nghiêm. |
Cei Brei hay còn gọi Po Cei Brei, là một vị vua Hồi giáo (Islam). Theo biên niên sử Champa Sakkarai dak rai patao thì Cei Brei là con của vua Po Tisuntiraydapaghoh. Cei Brei nhận tấn phong của Nguyễn Nhạc (Tây Sơn) vào năm Thỏ với chức tấn phong là Ceng (Chưởng Cơ), trị vì 4 năm và thoái vị năm Ngọ. Theo Hán Việt thì Po Cei Brei có tên là Nguyễn Văn Chiêu (1783 - 1786). |