Ts. Putra Podam (Văn Ngọc Sáng) Email: putrapodam@gmail.com Facebook: Putra Podam
Champa là một quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, chính thức độc lập từ thế kỷ 2 (năm 192) tồn tại đến thế kỷ 19 (năm 1832). Champa 1640 năm tồn tại và phát triển, thuộc khu vực miền Trung của đất nước Việt Nam hiện đại.
Champa xưa trải qua các nền văn hóa như: Văn hóa Bàu Tró: 5.000 TCN- 4.500 TCN; Văn hóa Xóm Cồn: 1.800 TCN - 1.200 TCN; Văn hóa Tiền Sa Huỳnh: 1.500 TCN - 500 TCN; Văn hóa Long Thạnh: 1.500 TCN - 980 TCN; Văn hóa Bình Châu: 1.000 TCN - 900 TCN; Văn hóa Sa Huỳnh: 500 TCN - Thế kỷ I SCN.
Champa có nền văn hóa đa dạng và phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kiến trúc, điêu khắc, văn hóa tôn giáo và thương mại với các quốc gia láng giềng trong khu vực Đông Nam Á bằng đường bộ và đường biển.
Champa từ đầu Công Nguyên được biết đến qua các đền đài Hinduism (Ấn giáo) và công trình kiến trúc đá ấn tượng, đặc biệt là những tháp Champa, tượng đài và đền thánh được xây dựng từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 17.
Hình 1. Năm độc lập và thời gian tồn tại trong lịch sử của Champa 1640 năm (192-1832) và một số nước Đông Nam Á.
Các đời vua Champa từ giai đoạn đầu Lâm Ấp (192-757), giai đoạn Hoàn Vương (757-859), giai đoạn Chiêm Thành (859-1471) thì các vua chúa ở Champa đều theo tôn giáo Hinduism. Hinduism trở thành quốc giáo từ thời kỳ Champa mang danh xưng Chiêm Thành đó là đời vua Bhadravarman II (Xà-da Ha-la-bạt-ma), trị vì (905-917).
Hình 2. Vua Paramesvaravarman I (Dịch-lợi Phê Mi Thuế), trị vì từ (972-982). Tên bính âm: Bōměishuìhè Yìnchá; bí danh Paramesvara Yang Pu Indra. Vua Chiêm Thành (Raja-di-raja), theo tôn giáo Hinduism. Sinh ra tại Indrapura-Champa và qua đời năm 982 tại Indrapura-Champa. Vị vua Champa đầu tiên tử trận dưới lưỡi gươm Nam tiến lần đầu tiên của Hoàng đế Đại Cồ Việt Lê Đại Hành (Sau khi người Việt độc lập từ người Hán).
Giai đoạn Lâm Ấp (192-757), các vua chúa Lâm Ấp đều theo tôn giáo Hinduism. Hinduism là quốc giáo.
Giai đoạn Hoàn Vương (757-859), các vua chúa Hoàn Vương đều theo tôn giáo Hinduism. Hinduism là quốc giáo.
Giai đoạn một, Chiêm Thành (859-1257), các vua chúa Chiêm Thành đều theo tôn giáo Hinduism. Hinduism là quốc giáo.
Giai đoạn hai, Chiêm Thành từ 1257, đa số vua theo tôn giáo Islam. Từ năm 1360 thời vua Chế Bồng Nga (Sultan Zainal Abidin), Chiêm Thành Islam trở thành Quốc giáo.
Sau khi thành Vijaya (Đồ Bàn, Chà Bàn) sụp đổ vào năm 1471 (thế kỷ 15), đây cũng thời kỳ đánh dấu sự tàn lụi hoàn toàn của Hinduism (Ấn giáo) ở Chiêm Thành và cả Đông Nam Á. Sau thế kỷ 15 Islam tại Panduranga phát triển cực thịnh và trở thành quốc giáo, mở mang giao thương với Đông Nam Á và thế giới.
Một số vua Chiêm Thành theo tôn giáo Islam như danh sách dưới đây:
- Vua Harivarman II (Dịch-lợi Băng-vương-la, tên hiệu: Sri Harivarmadeva), trị vì (988-997), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Jarai (Jrai). Thủ đô Champa tại Indrapura, ranh giới Đại Cồ Việt và Champa trong giai đoạn này tại đèo Ngang.
- Vua Po Aluah (Yang PuKu Vijaya Sri, Thất-ly Bì-xà-da-bạt-ma), trị vì (998-1006), theo tôn giáo Islam. Vua Champa lần đầu tiên sang Makkah hành hương. Makkah trong giai đoạn này mà Champa thường nhắc đến là khu đất thánh thuộc tiểu bang Kelantan (Malaysia) chứ không phải Makkah ở Ả Rập Saudi.
- Vua Indravarman V (Cei Harideva, Jaya Simhavarmadeva, tên hiệu: Paramodbhava), trị vì (1257-1285), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). . Binh lính Champa theo Islam thua trận sang định cư lần thứ 2 tại đảo Hải Nam, nơi Champa đi lập nghiệp lần đầu vào năm 992 thời Lưu Kỳ Tông.
- Vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân, R'cam Mal, Hoàng tử Harijit, Raja Kembayat), trị vì (1285-1307), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Vua Trần Nhân Tông sang ở Champa 9 tháng, hứa gã Huyền Trân cho Vua Chế Mân. Sau khi Chế Mân qua đời, Huyền Trân chạy trốn khỏi Champa về Thăng Long.
- Vua Jaya Simhavarman IV (Chế Chí, Chế Dà La, Hoàng tử: Po Sah, Tên hiệu: Harijitatmaja), trị vì (1307-1312), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) và dòng máu Java (Islam). Chế Chí là con vua Chế Mân và chánh hậu Bhaskaradevi (Islam Java). Chế Chí bị bắt và qua đời tại Thăng Long.
- Vua Jaya Simhavarman V (Chế Năng, Chế Đà A Bà Niêm, Chế Đa A Ba), trị vì (1312-1318), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) và dòng máu Java (Islam). Chế Năng là con vua Chế Mân và hoàng hậu Tapasi (Islam Java). Chế Năng thua trận cùng hoàng gia chạy sang Java lánh nạn quê hương mẫu hậu Tapasi. Đây là đợt di dân thứ ba của người Champa đi Java và hải ngoại.
- Vua Jaya Ananda (Chế Anan, Patalthor), trị vì (1318-1342), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Chế Anan là thống soái quân lực của vua Chế Năng.
- Vua Maha Sawa (Trà Hòa), trị vì (1342-1360), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Trà Hòa con rể vua Jaya Ananda (Chế Anan). Trà Hòa thuộc dòng dõi vua Chế Mân.
- Vua Jaya varman (Chế Bồng Nga, R'cam Bunga, Anak Champa Bunga, Ngo-ta-Ngo-che, Tên hiệu: Jaya varman, Sultan Zainal Abidin), trị vì (1360-1390), theo tôn giáo Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Hoàng hậu (vợ): Siti Zubaidah (Kelantan-Malaysia). Vua Chế Bồng Nga đánh chiếm Thăng Long 4 lần.
- Vua Maha Saya (Maha Trà Duyệt, Bàn La Trà Duyệt, Po Dam, Po Kathit), trị vì (1458-1460), Tôn giáo: Islam.
- Vua Maha Sajan (Maha Trà Toàn, Bàn-La Trà Toàn, Po Kabrah, Panluo Chaquan, Chandranekalawa), trị vì (1460-1471), Tôn giáo: Islam. Vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) chặt đầu vua Trà Toàn tại Nghệ An và treo trên đầu thuyền khắc chữ: “Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ”. Hậu duệ (Hai hoàng tử): Indravarman và Bàn La Trà Ko Lai (Pau Liang) chạy sang tị nạn Melaka. Số khác chạy sang Kelantan (Malaysia), Lào và Kampuchea. Vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) đã tàn sát thần dân Champa, phá hủy thành Vijaya. Đồng hóa Champa vào xã hội Đại Việt.
- Vua Maha Sajai (Maha Trà Toại, Bàn-La Trà Toại, Po Kabrih), trị vì (1471-1474), vua Islam. Thành Đồ Bàn tại Vijaya-Degar hoàn toàn bị xóa sổ.
- Wan Bo Tri Tri (Wan Bo, Sultan Wan Abu Adullah), trị vì 1471, 1474-1478). Vua Chiêm Thành (Champa), Tôn giáo: Islam. Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Wan Bo Tri Tri là con rể của vua Maha Sajan (Maha Trà Toàn). Wan Bo rời Patani đến Champa để giúp cha vợ là Trà Toàn chống Đại Việt. Wan Bo xưng vương và cho lui quân về Panduranga (Phan Lung).
- Wan Abu Yusof, trị vì (1478), Vua Chiêm Thành (Champa), tôn giáo: Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Cháu của Wan Bo (Wan Bo Tri Tri), Xưng vương Chiêm Thành tại Panduranga.
- Wan Abdul Kadir (Kou Lai), trị vì 1479-?). Vua Chiêm Thành (Champa), tôn giáo: Islam, sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Cháu của Wan Bo (Wan Bo Tri Tri), Xưng vương Chiêm Thành tại Panduranga.
Hình 3. Các Vương quốc Hồi giáo (Vương quốc Hồi giáo đầu tiên ở Đông Nam Á) dựa trên bằng chứng lịch sử, không phải truyền thuyết. Vương triều Chế Bồng nga, Chiêm Thành trở thành Islam Quốc giáo tại Vijaya (The first Sultanates / Islamic Kingdoms in Southeast Asia - based on historical evidence, not legend.). Nguồn: SEA Heritage & History (Di sản và lịch sử Đông Nam Á).
Hình 4. Đức vua Chế Mân (Raja Kembayat, R'cam Mal). Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Trong quyển "Bidasari and The Djinn" của Ninot Aziz. Chế Mân, vị vua Islam (Hồi giáo). Bang giao với thế giới Melayu, và kết hôn với công chúa Tapasi Majapahit (Indonesia).
Hình 5. Chế Bồng Nga (1360-1390) là vị vua Islam (Hồi giáo). Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai). Khi lên ngôi vua Chế Bồng Nga lấy niên hiệu là Sultan Zainal Abidin và cưới công chúa Siti Zubaidah Kelantan-Malaysia. Ảnh VTV1.
Vua Panduranga từ Vương triều thứ 2: Bal Hanguw, đến Vương triều thứ 8: Bal Canar thuộc triều đại Po Klaong Mah Nai, Po Rome, Po Nrop, Po Saktiraydapaghoh, Po Jatamah, Po Saot, Po Saktiraydapatih, , Po Ganuhpatih, Po Thuntiraydaputih, Po Rattiraydaputao, Po Tisundimahrai, Po Tisuntiraydapaghoh, Po Tisuntiraydapuran, Po Krei Brei, Po Chongchan. Đặc biệt vương triều thứ 8, dòng dõi vua chúa, quý tộc, hoàng gia là tộc người Churu và Raglai. Thời kỳ này tại Panduranga (thuộc Champa) Islam là quốc giáo. Giai đoạn này không có vua là tộc người Chăm (Cham).
Hình 6. Po Klaong Mah Nai (niên hiệu: Po Mah Taha),1622-1627, vị vua sùng bái Islam (Hồi giáo). Vua Panduranga thuộc triều vương thứ 8, đóng đô ở Bal Canar, gồm các vua: Po Klaong Mah Nai, Po Rome, Po Nrop, Po Saktiraydapaghoh, Po Jatamah, Po Saot, Po Saktiraydapatih, Po Ganuhpatih, Po Thuntiraydaputih, Po Rattiraydaputao, Po Tisundimahrai, Po Tisuntiraydapaghoh, Po Tisuntiraydapuran, Po Krei Brei, Po Chongchan. Đặc biệt vương triều thứ 8, dòng dõi vua chúa, quý tộc, hoàng gia là tộc người Churu và Raglai. Thời kỳ này Panduranga (thuộc Champa) Islam là quốc giáo. Giai đoạn này không có vua tộc người Chăm (Cham).
Thuận Thành trấn (Bal Canar) thuộc Panduranga: từ Vương triều thứ 9, tộc người Chăm lên cai trị Thuận Thành Trấn. Thuận thành trấn vương không xuất phát từ dòng dõi quý tộc hay từ hoàng gia Champa gồm:
- Po Ladhuanpaghuh (Nguyễn Văn Hào), trị vì (1793-1799), Thuận Thành trấn (Panduranga). Phó cai trị là Po Saong Nyung Ceng (1794-1799). Nổi bật: cuộc khởi nghĩa Tuan Phaow (Tuần Phủ), một vị công hầu đến từ Malaysia.
- Po Saong Nyung Ceng (Nguyễn Văn Chấn, Po Ceng), trị vì (1799-1822), Thuận Thành trấn (Panduranga). Po Klan Thu làm phó vương.
- Po Bait Lan (Nguyễn Văn Lân), trị vì 1822, Thuận Thành trấn (Panduranga). Minh Mệnh đưa Bait Lan lên nối ngôi, nhưng không thành, vì có sự chống đối của Lê Văn Duyệt.
- Po Klan Thu (Nguyễn Văn Vĩnh), trị vì (1822-1828), Thuận Thành trấn (Panduranga). Cei Dhar Kaok làm phó vương.
-Po Phaok The (Nguyễn Văn Thừa), trị vì (1828-1832), Thuận Thành trấn (Panduranga). Cei Dhar Kaok (Nguyễn Văn Nguyên) làm phó vương.
Giai đoạn Thuận Thành trấn, do người Chăm cai trị, nhưng không xuất phát từ dòng dõi quý tộc hay hoàng gia Panduranga, nên trong cuộc khởi nghĩa của Katip Sumat và Katip Thak Wa (Ja Thak Wa) triệu tập một hội đồng để chỉ định Po War Palei (La Bôn Vương), dân tộc Churu, Raglai lên làm quốc vương (Po Patrai). Po War Palei là người Churu, Raglai thuộc hoàng gia Po Rome. Sự phong chức cho Po War Palei làm qốc vương có nghĩa Katip Thak Wa muốn phục hưng lại triều đại Panduranga thuộc tộc người Churu, Raglai thuộc dòng dõi hoàng gia Champa chính thống.
Một số danh xưng Champa trải qua các giai đoạn lịch sử:
- Hồ Tôn Tinh (trước thế kỷ 1 TCN): Xưa kia có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm, vị vua của vương quốc này là Tràng Minh, hiệu Quỷ Vương có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh. Hoàng tử Chung Tư, người kế vị vua Hồ Tôn Tinh, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh. Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm. Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước Hồ Tôn Tinh và cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn đầu một đoàn hầu binh xẻ núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm, giết chết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về.
- Lâm Ấp (192 - 757): Lin Yi (tiền thân Champa)
- Hoàn Vương (757 - 859): Huánwáng (Champa)
- Chiêm Thành (859 - 1471): Zhancheng (Champa)
- Hoa Anh (1471 - 1611): Aia Ru-Phú Yên (Champa)
- Kauthara (757 - 1653): Aia Terang-NhaTrang (Champa)
- Nam Bàn (1471 đến thế kỷ 20): Vijaya- Degar Tây Nguyên (Champa)
- Panduranga (757-1693): Ninh Thuận - Bình Thuận (Champa)
- Thuận Thành Trấn (1693 - 1832): Ninh Thuận - Bình Thuận (Champa)
Hình 7. Hiệu huy Champa (Bani Champa), có một hình tròn nền xanh da trời tượng trưng cho sự thống nhất của nhân dân Champa, bên trong chứa trăng lưỡi liềm (Aia Bulan) và hoa Champa là ngôi sao 5 cánh (Batuk). Ngôi sao 5 cánh đại diện cho sự thống nhất giữa các tiểu bang như Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Trăng Liềm đại diện cho Hồi giáo là quốc giáo của Champa. Hoa Champa (ngôi sao 5 cánh) và trăng liềm trước đó màu vàng là màu hoàng gia Champa. Champa không còn vương nên đổi thành màu trắng, nhưng nhụy hoa Champa mãi màu vàng hoàng gia Champa.
Hình 8. Hiệu kỳ Champa (Hala dok Champa): Hiệu kỳ Champa (Dok Champa), gồm 9 sọc đỏ và trắng xen kẽ nhau nằm ngang đại diện cho tư cách bình đẳng và bên trái có một hình chữ nhật màu trắng xanh mang trăng lưỡi liềm (Aia Bulan) và ngôi sao 5 cánh (Batuk). Ngôi sao 5 cánh đại diện cho sự thống nhất giữa các tiểu bang như Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Lưỡi liềm đại diện cho Hồi giáo là quốc giáo của Champa; nền xanh da trời tượng trưng cho sự thống nhất của nhân dân Champa; ngôi sao và lưỡi liềm trước đó màu vàng là màu hoàng gia Champa, nhưng nay Champa không còn vua nên đổi thành màu trắng (Quốc gia Hồi giáo không còn vương).
1. Lâm Ấp (192 - 757): Lin-Yi
Theo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Champa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Simhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: Lin Yi) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Quảng Bình đến Quảng Nam, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.
Lâm Ấp là vương quốc khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập đã nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Người Melayu Champa có chữ viết riêng, chữ viết Champa cổ là hệ thống ký tự có nét vẽ riêng, xuất phát từ chữ viết Devanagari của Ấn Độ (Lafont, 2011), xuất hiện lần đầu tiên trên bia ký Võ Cạnh (Nha Trang) vào thế kỷ thứ 2 (Filliozat, 1969).
Tiếng Chăm hay tiếng Melayu Champa là hệ ngôn ngữ thuộc gia đình Đa Đảo “Autronesian”. Tiếng Chăm có mối quan hệ khăng khít với tiếng Mã Lai. So với tiếng Mã Lai người ta đã tìm thấy dấu tích vào thế kỷ thứ 7, còn tiếng Melayu Champa đã xuất hiện lần đầu tiên trên bia kí Đồng Yên Châu (Trà Kiệu) vào thế kỉ thứ 4 (Al-Ahmadi, 1988; Coedes, 1939).
Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756.
Triều đại
|
Tên tiếng Phạn
|
Tên khác
|
Thời gian
|
Dòng dõi
|
---|---|---|---|---|
Vương triều thứ 1: (192-336)
Lâm Ấp (Linyi)
|
Sri Mara
|
Khu Liên,
Ou Lian,
Zhulian,
|
192-220
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
|
?
|
Phạm Hùng,
Fan Hiong,
Fan Hsung,
|
220-280
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Cháu ngoại vua Khu Liên
|
|
?
|
Phạm Duật,
Phạm Dật,
Fan Yi,
|
280 - 336
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Hùng
|
|
Vương triều thứ 2:
(336-420)
Lâm Ấp (Lin Yi)
|
?
|
Phạm Văn,
Fan Wen,
|
336-349
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Phạm Văn là tổng chỉ huy quân đội của Phạm Duật.
Sau khi Phạm Duật qua đời, Phạm Văn chiếm ngai vàng.
|
Bhadravarman
|
Phạm Phật,
Fan Fo,
|
349-380
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Văn
|
|
Bhadravarman I
|
Phạm Hồ Đạt,
Fan Huda,
Dharmamaharaja,
Tên hiệu: Sri Bhadravarman I,
|
380-413
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Phật
|
|
Gangaraja (Lâm Ấp và Simhapura)
|
Gangaraja
|
Phạm Địch Chân,
Phạm Địch Chớn,
Ti Chen,
Jaya Gangarajavarman I.
|
413-?
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Hồ Đạt
|
Manorathavarman
|
Mã-nặc-lạp-đát-bạt-ma,
Dịch-lợi Mã-nặc-lạp-đát-bạt-ma,
Fan Wendi,
|
?-?
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Cháu của vua Gangaraja
|
|
Lâm Ấp
|
Gangarajavarman II
|
Dịch-lợi Phạm Địch Văn
|
?-420
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Em của vua Manorathavarman
|
Vương triều thứ 3: (420-530)
Kandapurpura
|
?
|
Phạm Dương Mại I,
Văn Địch,
Fan Yang Mai I,
Yang Mah,
|
421-431
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Địch Văn
|
?
|
Dương Mại II
|
431-446
Mất 455
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Dương Mại I
|
|
Devanika
|
Phạm Thần Thành,
Phạm Chút,
Fan Tou,
|
455-472
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Dương Mại II
|
|
Jayavarman II
|
Phạm Đang Căng Thuần,
Phạm Đăng Căn Thăng,
Kieou Tcheou Lo,
|
472-492
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Phạm Đang Căng Thuần cướp ngôi giết vua Phạm Trần Thành
|
|
?
|
Phạm Chư Nông
|
492-498
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Phạm Chư Nông là con vua Phạm Trần Thành, giết vua Phạm Đang Căng Thuần trả thù cho vua cha và giành lại ngôi báu.
|
|
?
|
Phạm Văn Tẩn,
Phạm Văn Tổn,
Fan Wen Kuoan,
|
498-510
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Phạm Chư Nông
|
|
Devavarman
|
Phạm Thiên Khởi
|
510-526
|
Vua Lâm Ấp (L1in Yi)
Tôn giáo: Hindu
|
|
Vijayavarman
|
Phạm Bật Tôi Bật Ma
|
526-529
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
|
|
Vương triều thứ 4: (529-757)
Simhapura
|
Rudravarman I
|
Luật Đà La Bạt Ma
|
529-572
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Tôn giáo: Hindu
Mẹ là cháu gái vua Manorathavarman
|
|
Jaya Sambhuvarman
|
Phạm Phạn Chí
|
572-629
|
Vua Lâm Ấp (Lin Yi)
Lâm Ấp cáo chung (572-605)
Vua Champa (605-629)
Tôn giáo: Hindu
Con vua Rudravarman I
|
Kandrapadharmavarman
|
Phạm Đầu Lê
|
629-640
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
Con vua Jaya Sambhuvarman (Phạm Phạn Chí)
Tước hiệu vua Champa đầu tiên
|
|
Prabhasadharma
|
Phạm Trấn Long,
Jaya Prabhasadharma,
|
640-645
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
Con vua Kandarpadharma (Phạm Đầu Lê)
|
|
Bhadresvaravarman
|
Bạt Đà La Thú La Bạt Ma
|
645-646
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
Con trai của một công chúa là em gái của vua Phạm Trấn Long
|
|
Isanavarman
(Daughter of Kandarpadharma)
|
Công chúa Tchou Koti
|
646-653
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
Con gái chánh phi của vua Kandarpadharma (Phạm Đầu Lê), và là em gái của vua Jaya Prabhasadharma (Phạm Trấn Long)
|
|
Vikrantavarman I
|
Dịch-lợi Chư-cát-địa
|
653-686
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
Vikrantavarman I là con của Hoàng tử Jagaddharma (cháu vua Kandarpadharma - Phạm Đầu Lê)
|
|
Naravahanavarman
|
|
686-?
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
|
|
|
Vikrantavarman II
Sri Vikrantavarman
|
Dịch-lợi Kiến-đa-thế-ma
|
687-741
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
Con vua Vikrantavarman I
|
|
Lútuóluó
|
Dịch-lợi Lô-đà-la
|
?-757
|
Vua Champa
Tôn giáo: Hindu
|
Hình 9. Asia 400 AD. From Wikimedia Commons, the free media repository. Bản đồ thế giới năm 400 Sau Công nguyên. Thời kỳ vương quốc Hoàn Vương (tiếng Hán: 環王國; Huán Wáng). Bản đồ Đông Nam Á thế kỷ thứ 5.
2. Hoàn Vương (757- 859): Huan-wang
Hoàn Vương (tiếng Hán: 環王國; Huán wáng), là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc Champa trong thời kỳ từ 757 đến 859, định đô tại Virapura (Hùng Tráng thành). Vương quốc Hoàn Vương được thành lập năm 757, là hệ quả của sự phân rã quốc gia Lâm Ấp. Hoàn Vương độc lập cho đến năm 859 thì thống nhất với 4 tiểu quốc khác để thành hình quốc gia Champa.
Theo lịch sử, sứ mệnh cống nạp cuối cùng của Lâm Ấp cho triều đình nhà Đường vào năm 749, do một người cai trị tên là Lútuóluó (Dịch-lợi Lô-đà-la) cử đi. Sau này, Cựu Đường (Old Book of Tang) chép rằng Lâm Ấp (Lin Yi) đổi tên thành Huánwáng (Hoàn Vương) vào thời Chi Đức (the Zhide) khoảng năm 756.
Để tìm hiểu Virapura đặt tại đâu thì có nhiều ý kiến cho rằng, Virapura kinh đô Hoàn Vương đặt tại Panduranga, số khác cho rằng định đô tại Kauthara, còn lại định đô xung quanh khu vực Quảng Trị.
Theo lịch sử Champa, Hoàn Vương là một giai đoạn lịch sử từ năm (757-854) thuộc triều vương thứ năm với vị vua đầu tiên là Prithivindravarman. Triều đại của Prithivindravarman đánh dấu điểm khởi đầu của triều đại Hoàn Vương, kinh đô ở Virapura phía nam Champa. Triều đại Simhapura ở Thung lũng sông Thu Bồn được thành lập bởi Gangaraja (413-?) và kết thúc vào khoảng năm 740 sau Công Nguyên. Từ đó trung tâm quyền lực của Champa chuyển dần về phía nam Virapura (Hùng Tráng Thành).
Theo Huanghua Sidaji, một thừa tướng nhà Đường (Tang prime minister) tên là Jia Dan biên soạn vào khoảng năm 800, thì Hoàn Vương (Huánwáng) là một vương quốc nằm quanh khu vực Quảng Trị.
Theo một số tài liệu cho rằng Virapura (Hùng Tráng thành) là kinh đô Champa thời Hoàn Vương ở lãnh thổ xứ Kauthara (Khánh Hòa), bởi khu đền tháp Po Ina Nagar do các vị vua Hoàn Vương xây dựng.
Theo Wiki, vua Prithivindravarman vị vua Hoàn Vương đầu tiên, theo tôn giáo Hinduism, sinh ra tại Kauthara và qua đời năm 774 tại Virapura thuộc kinh đô Hoàn Vương. Vua Satyavarma là vị vua Hoàn Vương thứ hai, theo tôn giáo Hinduism. Sinh ra tại Kauthara và qua đời năm 787 tại Kauthara. Satyavarma là cháu trai (con trai của chị gái) của vua Prithindravarman, người sáng lập một triều đại tập trung về phía nam của Champa. Vua Indravarman I, là vị vua Hoàn Vương thứ ba, theo tôn giáo Hinduism. Sinh tại Champa và qua đời năm 802 tại Kauthara. Indravarman I kế nhiệm ngôi vua từ anh trai là Satyavarman (770-787).
Theo Ts. Putra Podam, lịch sử Champa có giai đoạn mang danh xưng Hoàn Vương (Huánwáng) từ năm (757-859) được dời về phía nam Champa, tức gồm các địa khu kéo dài từ Vijaya, Kauthara và Panduranga, định đô tại Virapura (Hùng Tráng thành). Căn cứ tthêm lịch sử ba đời vua đầu tiên của Hoàn Vương đều sinh ra và qua đời tại Kauthara, thì khẳng định Virapura định đô xung quanh Kauthara.
Theo G. Maspero, vua Satyavarman (770-787) cư ngụ ở Panduranga, nơi mà tổ tiên ông đã sống và chú ông là vua Prithivindravarman (757-770) đã sống từ trước. Với chi tiết trên, G. Maspero đã nhận định rằng, ít nhất hai vị vua đầu tiên của Hoàn Vương đã đóng đô ở đất Panduranga.
Căn cứ các nhà du thám biển Champa cho biết đảo Zhànbùláo (Cù Lao Chàm hay Đảo Champa, được ghi trong các tài liệu của người Hồi giáo) nằm cách thủ đô Huánwáng 200 dặm về phía đông. Từ Zhànbùláo (Cù Lao Chàm) đến núi Ling (Lingaparvata) mất hai ngày, rồi đi một ngày đến nước Méndú (Phú Yên), đi thêm một ngày nữa đến nước Gǔdá (Kauthara), đi thêm nửa ngày mới đến nơi của Bēntuólàng (Panduranga).
Theo Ts. Po Dharma, trong Biên Niên Sử Panduranga (Sakkaray Dak Rai Patao), Panduranga được biết đến thời kỳ tiền sử gồm 5 vị vua gồm Po Aluah, Po Binnasur, Po Putik, Po Sulika, Po Klong Garai nhưng không cho biết trị vì từ năm nào. Theo Ts. Po Dharma, 5 vị vua này không phải là người thường mà là những vị thần linh, tự sinh ra (jiéng éng hay éngkat) và tự giáng thế để cai trị xứ sở Chăm. Sau một thời gian lên ngôi, các vị thần thánh này không chết, nhưng trở về thế giới linh thiên (nao meng rup). Theo Ts. Po Dharma thời kỳ lịch sử của Panduranga bắt đầu từ Triều đại Po Sri Agarang (1193-1235 hay 1205-1247), lên ngôi năm Sửu, thoái vị năm Mùi (dị bản khác cho là năm Ngọ), trị vì 43 năm, đóng đô ở Bal Hanguw (gần biên giới Krong Pha, Dalat). Căn cứ nghiên cứu của Ts. Po Dharma, thì thần dân Champa chỉ biết đến Panduranga hay chính xác hơn biết về vị vua đầu tiên của xứ Panduranga là vào năm 1193 hay 1205. Người Chăm tại Panduranga hoàn toàn không biết sự tồn tại của Virapura (Hùng Tráng Thành), bởi Hoàn Vương độc lập từ năm (757-859).
Theo Ts. Putra Podam, nếu Hoàn Vương (Huánwáng) tồn tại ở phía nam Champa bao gồm các địa khu Vijaya, Kauthara và Panduranga từ năm (757-859), thì có nghĩa rằng Hoàn Vương cũng được xem là tiền thân của Panduranga. Do vậy, Panduranga phải được được biết đến đầu tiên từ năm 757 và tồn tại đến hết triều vương Panduranga là vua Po Saot (Bà Tranh) vào năm 1692. Năm 1693 đánh dấu danh xưng Panduranga đã được Việt Nam đổi tên Thuận Thành Trấn (1693 - 1832).
Điều trên sẽ mâu thuẫn với lý thuyết của Ts. Po Dharma. Ông cho rằng thời kỳ lịch sử của Panduranga chỉ bắt đầu từ Triều đại Po Sri Agarang (1193-1235 hay 1205-1247).
Một số nghiên cứu khác lại cho rằng, Panduranga chỉ tồn tại từ (1611 - 1692). Tính từ năm thất thủ Kauthara (1611) và tồn tại đến hết triều vương Po Saot (Bà Tranh) vào năm 1692 đóng đô tại Panduranga và chuyển sang triều vương Po Saktiraydapatih (Bà Tử), trị vì (1695-1727) đóng đô tại Thuận Thành trấn (Panduranga) cho đến khi xóa khỏi bản đồ vào năm 1832.
Căn cứ cơ sở trên, theo Ts.Putra Podam, Hoàn Vương (Huánwáng) độc lập từ năm (757-854) tồn tại ở phía nam Champa (gồm các địa khu Vijaya, Kauthara và Panduranga), kinh đô Hoàn Vương mang tên Virapura (Hùng Tráng Thành) phải đặt tại xung quanh Kauthara, chứ không phải đặt tại Panduranga.
Triều đại |
Tên tiếng Phạn |
Tên khác |
Thời gian |
Dòng dõi |
---|---|---|---|---|
Vương triều thứ 5: (757-854) Kauthara-Panduranga
|
Prithivindravarman Sri Prithivindravarman |
Dịch-lợi Tất-để-bân-đà-la-bạt-ma, Tên truy tặng: Rudraloka. |
757-770 |
Vua Hoàn Vương (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu
|
Satyavarma
|
Dịch-lợi Tát-đa-bạt-ma, Tên hiệu: Sri Satyavarman, Tên truy tặng: Isvaraloka. |
770-787 |
Vua Hoàn Vương (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Satyavarma là cháu vua Prithindravarman, con trai của chị gái nhà vua. Nă 774, người Java tấn công phá đền Po Ina Nagar lần thứ nhất. |
|
Indravarman I |
Dịch-lợi Nhân-đà-la-bạt-ma |
787-801 |
Vua Hoàn Vương (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Em vua Satyavarman Năm 787, người Java tấn công Champa lần thứ hai và phá đền Hòa Lai. |
|
Harivarman I |
Dịch-lợi Ha-lê-bạt-ma, Tên hiệu: Sri Harivarman Deva Rajadhiraja. |
802-817 |
Vua Hoàn Vương (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Em rể vua Indravarman I. Chữ viết Champa đầu tiên được khắc, thay thế dần chữ Phạn (Sanskrit). |
|
Vikrantavarman III |
Dịch-lợi Bì-kiến-đà-bạt-ma, Tên hiệu: Sri Vikrantavarmadeva |
817-854 |
Vua Hoàn Vương (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Harivarman I |
Hình 10. Danny Wong Tze Ken, The Nguyen and Champa during 17th and 18th Century: A Study of Nguyen Foreign Relations, Paris-San Jose: Champaka, Monograph 5, 2007, p.192. Việt Nam hiện đại gồm: Đại Việt, Champa và Khmer.
3. Chiêm Thành (859-1471): Zhan-cheng (Champa)
Theo các nhà nghiên cứu Pháp (Pgs. Po Dharma, Gs. P-B Lafont, Ts. B. Gay), Champa không phải là vương quốc dành riêng cho dân tộc Chăm, mà là một quốc gia đa chủng, tập trung những cộng đồng tộc người nằm trong biên giới chính trị của quốc gia này, chạy dài từ phía bắc Quảng Bình cho đến Biên Hòa, bao gồm cả khu vực Tây Nguyên, như người Jrai, Rhade, Churu, Raglai, Hroi, Bahnar, Sedang, Stieng, Ma, … trong đó có người Chăm sống ở đồng bằng. Champa một tên gọi có nguồn gốc từ Ấn Độ, được đặt tên cho vương quốc Champa kể từ thế kỷ thứ II gồm 5 tiểu bang: Indrapura (Đồng Dương), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Bình Định), Kauthara (Phú Khánh gồm Phú Yên và Khánh Hòa), và Panduranga (Thuận Hải gồm Ninh Thuận và Bình Thuận).
Theo sử liệu Trung Quốc, vương quốc cổ Champa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Simhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: Lin Yi) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Quảng Bình đến Quảng Nam, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Lâm Ấp (Lin Yi) là tiền thân của vương quốc Champa.
Theo khoa học lịch sử, vua mang danh xưng Lâm Ấp và Champa là vua Jaya Sambhuvarman (Phạm Phạn Chí), trị vì (572-629), qua đời vào năm 629. Lâm Ấp cáo chung năm 605, và tiếp tục làm vua Champa (605-629).
Danh xưng vua Champa đầu tiên là: Kandrapadharmavarman (Phạm Đầu Lê), trị vì (629-640), là vị vua Champa (Raja-di-raja) thuộc triều đại Simhapura theo tôn giáo Hinduism. Kandarpadharma là vị vua đầu tiên trong lịch sử chính thức phong tước hiệu Vua Champa: Campāpr̥thivībhuj (chúa tể của vùng đất Champa) và Campāpura (thành phố Champa). Kandarpadharma là thành viên của triều đại Simhapura, triều đại Gangeśvara do Gangaraja thành lập.
Danh xưng Champa xuất hiện lần đầu tiên trong các bia ký vào thế kỷ thứ VII. Bia ký C96 ở Mỹ Sơn năm 658 đề cập đến danh từ Campapuryyam (thành bang Champa), Campapura-pamesvara (chúa tể của thành bang Champa), và Campanagara (vương quốc Champa). Bia C73 tại Mỹ Sơn nhắc đến danh từ Campadesa (người mang lại thịnh vượng cho Champa). Danh xưng Champa còn xuất hiện qua văn bia vua Kandarpadharma tại Huế.
Tại Angkor, một bia ký của Đế chế Khmer ghi nhận Champa vào năm 668, người trị vì Champa (Campasvara) đã sai sứ bộ đến Kampuchea.
Champa một thời kỳ mệnh danh là Hoàn Vương (Huan-wang) từ năm (757-859). Hoàn Vương (tiếng Hán: 環王國), là tên ghi trong lịch sử Trung Hoa gọi vương quốc Champa trong thời kỳ từ 757 đến 859, định đô tại Virapura (Hùng Tráng thành). Theo một số tài liệu khác cho rằng Virapura là kinh đô Champa thời Hoàn Vương ở lãnh thổ xứ Kauthara (Khánh Hòa), bởi khu đền tháp Po Ina Nagar do các vị vua Hoàn Vương xây dựng.
Vương quốc Champa mang quốc hiệu Champapura (theo Sanskrit là: Campapura hay Campanagara) được vua Champa là Indravarman II, trị vì (854-893), chính thức sử dụng khi tôn vinh đất nước Champa.
Sử sách Trung Hoa ghi là: 占城 (Zhàn chéng hay Zhancheng) từ năm 877. Phiên âm theo Hán Việt là: Chiêm Thành), phát xuất từ “Champapura” (Kinh thành Champa), “Chiêm” là từ phiên âm từ “Champa”, “Thành” là từ chuyển ngữ của “Pura” ám chỉ cho kinh thành, thủ đô, vương quốc.
Vương quốc Champa (Campānagara, tiếng Hindi: चम्पानगर) mang quốc hiệu Campāpura, được sử sách Trung Hoa ghi 占城 (Zhancheng), được phiên âm theo Hán Việt: “Chiêm Thành”, danh xưng chính thức trên bản đồ thế giới: Champa.
Kể từ đó, Champa trở thành tên gọi được sử dụng phổ biến trong các văn bản lịch sử ở các quốc gia Đông Nam Á.
Về sau, các bia ký thường đề cập đến sự ra đời một triều đại mới của Champa đặt thủ đô tại Indrapura (làng Đồng Dương, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam).
Sáng lập viên của vương triều Indrapura là vua Indravarman II (854-893). Ông tự cho mình là người xuất thân từ một dòng tộc mang tính cách huyền thọai được ghi trên bia ký vào năm 875 tại Ðồng Dương.
Indravarman II là vị vua theo tôn giáo: Hinduism, nhưng rất tôn sùng Phật Giáo (vị vua đầu tiên đưa Phật giáo Đại thừa vào Champa). Đây là nguyên nhân giải thích cho sự ra đời của nhiều công trình xây dựng các đền Phật Giáo ở Ðồng Dương. Mặc dù đã từng đứng ra thực hiện những trung tâm Phật Giáo đại thừa rất là đồ sộ có chu vi lớn hơn một cây số cộng thêm đức tin của ông đối với đạo Phật, nhưng vua Indravarman II vẫn còn giữ nguyên truyền thống Shiva Giáo của các vị vua tiền bối đã từng cai trị miền bắc của Champa trước đó. Thần dân Champa chưa bao giờ theo Phật giáo, sự xuất hiện tu viện Phật giáo ở Champa là do nhà vua xây để nghiên cứu, vì đức tin của nhà vua đối với Phật giáo. Thời kỳ Phật giáo ảnh hưởng ở Champa trong thời gian rất ngắn và kết thúc khoảng năm 925.
Sự kiện năm 1471 sau khi vua Trà Toàn thất bại, là một cuộc tàn sát đẫm máu nhất của vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) đối với thần dân Champa. Sau cuộc chính biến lịch sử này có khoảng 30.000 người trốn thoát bằng thuyền qua cửa đầm Thi Nại là những di cư chính trị, Hoàng tộc Champa trong đó có con (hai hoàng tử) của vua Trà Toàn là Indravarman và Bàn La Trà Ko Lai (Pau Liang) chạy sang Malacca (Melaka) và một số khác chạy sang vùng đất Kelantan (Malaysia). Khoảng 40.000 người chạy sang Lào và Kampuchea. Sau cuộc tàn sát đẫm máu này, vua Lê Thánh Tông giải tán vương quốc Champa, thủ đô chính trị, hành chánh và tín ngưỡng của vương quốc Bắc Champa được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn và cấm người Champa đến cư ngụ. Thần dân Champa bị ép làm nô lệ và bị buộc phải đồng hóa vào xã hội Đại Việt.
vua Trà Toại (Po Kaprih), em vua Trà Toàn, dẫn theo một số tàn quân trốn lên xứ Bồn Man (Tây Nguyên ngày nay), được dân chúng tôn lên làm vua. Po Kaprih xưng hiệu Trà Toại và cho người sang Trung Hoa cầu cứu nhà Minh, báo cáo tình hình của Champa. Nhà Minh không tán thành việc Đại Việt chiếm đóng Champa nhưng không dám can thiệp trực tiếp.
Năm 1472, vua Lê Thánh Tông sai sứ sang Trung Hoa báo cáo sự tình, Minh Hiển Tông trách cứ Đại Việt chiếm đế đô Đồ Bàn (Vijaya). Sau đó nhà Minh sai sứ sang phong vương cho Trà Toại nhưng khi đến cửa Tân Châu (Quảng Nam) quân Lê Thánh Tông không cho cập bờ, vì Lê Thánh Tông phản đối việc phong vương cho Trà Toại.
Năm 1474, Lê Thánh Tông sai Lê Niệm mang 30.000 quân lên Tây Nguyên lùng bắt Maha Sajai (Trà Toại) đưa về hành hình tại Thăng Long. Vijaya cáo chung 400 năm.
Triều đại Vijaya chính thức cáo chung, Champa tan rã và lui dần về phía nam. Tướng Bố Trì Trì (vị tướng Champa theo Islam) chạy vào phía nam chiếm vùng Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng làm vua Champa.
Chiến tranh Đại Việt-Champa năm 1471 kết thúc, vua Lê Thánh Tông xâm chiếm hoàn toàn khu vực Vijaya-Degar. Sau cuộc chiến, Champa bị sụp đổ và thu hẹp dần phía nam chỉ còn địa khu Aia Ru (Phú Yên) hay tiểu quốc Hoa Anh (là một địa khu Champa phân bố trên một không gian từ Tây Nguyên, đèo Cù Mông đến núi Đá bia-Thạch Bi Sơn thuộc Phú Yên và cư dân nòng cốt là người Rhade), tiểu khu Kauthara (Aia Terang-Nha Trang), tiểu quốc Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận) và phía Tây là tiểu quốc Nam Bàn (tiểu quốc Jarai) gồm các dân tộc trên cao nguyên (Tây Nguyên ngày nay).
Chúa Nguyễn, do không đủ tiềm năng quân sự để chống các chúa Trịnh phương bắc, các chúa Nguyễn chỉ còn cách phát động phong trào Nam Tiến, tức là cầm gươm tiến về phía lãnh thổ Champa. Cuộc Nam Tiến của chúa Nguyễn càng tăng tốc theo thời gian trước sức ép của các chúa Trịnh. Nhưng cuộc Nam Tiến này chỉ dọc theo các vùng duyên hải, vì dễ bài binh bố trận, để đánh chiếm Champa. Ngược lại chúa Nguyễn không dám phiêu lưu lên các vùng rừng núi phía Tây (Tây Nguyên-tiểu quốc Nam Bàn), vì không nắm vững địa dư phong thổ nơi cộng đồng của tộc người Rhade, Jarai, Chăm, Stieng, Mnong, Bahnar, K’ho, Lat (Lạch), Chil, Sre, …
Chiến tranh Đại Việt-Champa năm 1471 kết thúc, danh xưng Champa đã phân rã thành các danh xưng như sau:
- Hoa Anh (1471 - 1611): Aia Ru (Phú Yên)
- Kauthara (757- 1653): Aia Terang (NhaTrang-Khánh Hòa)
- Nam Bàn (1471 đến thế kỷ 20): Vijaya- Degar (Tây Nguyên)
- Panduranga (757-1693): Ninh Thuận, Bình Thuận
- Thuận Thành Trấn (1693 - 1832): Ninh Thuận, Bình Thuận
Triều đại |
Tên tiếng Phạn |
Tên khác |
Thời gian |
Dòng dõi |
Vương triều thứ 6: (859-991) Indrapura-Chiêm Thành (Champa) |
Indravarman II
|
Dịch-lợi Nhân-đà-la-bạt-ma, Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, Tên hiệu: Sri Indravarmadeva, Tên truy tặng: Paramabuddhaloka
|
854-893 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Indravarman II là vị vua đầu tiên đưa Phật giáo Đại thừa vào Champa. Indravarman II, không thuộc thành viên gia tộc của các triều đại trước. Quốc hiệu Champapura: Bính âm: Zhancheng; Hán Việt: Chiêm Thành, chính thức sử dụng năm 877. |
Jaya Simhavarman I |
Xà-da Tăng-gia-bạt-ma, Jaya Simhavarmadeva, Jaya Sinhavarmadeva Campapura Paramesvara, Tên hiệu: Sri Jaya Simhavarmadeva. |
897-904 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Cháu vua Indravarman II. Chính hậu: Tribhuvana Mahadevi hay Tribhuvanadevi. Thứ hậu: Surendradevi. Hoàng tử: Saktivarman.
|
|
Jaya Saktivarman |
|
904-905 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Jaya Simhavarman I. |
|
Bhadravarman II |
Xà-da Ha-la-bạt-ma |
905-917 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Bhadravarman II tiếp tục quan hệ với Java (quốc gia Ða Ðảo). |
|
Indravarman III |
Xà-da Nhân-đức-man |
918-960 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Bhadravarman II. Islam (Hồi giáo) chính thức được phổ biến trong hoàng gia thời vua Indravarman III. Năm 918, tạc tượng Bhagavati bằng vàng để tôn vinh nữ thần từ Yang Pu Kauthara trở thành Yang Pu Nagara. Năm 945, vua Khmer là Rajendravarman II, đánh Kauthara cướp tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng. |
|
Jaya Indravarman I |
Dịch-lợi Nhân-di-bàn, |
961-971 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Indravarman III. Năm 965, vua Jaya Indravarman I, tạc tượng nữ thần Bhagavati bằng đá hoa cương được lưu đến nay. |
|
Paramesvaravarman I |
Dịch-lợi Bế Mi Thuế, Dịch-lợi Phê Mi Thuế, Paramesvara Yang Pu Indra, |
972-982
|
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Jaya Indravarman I Paramesvaravarman I, vị vua đầu tiên của Champa đối diện trực tiếp Đại Cồ Việt. Văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc Champa chính thức du nhập vào đời sống cung đình người Việt. |
|
Indravarman IV |
Dịch-lợi Nhân-đà-la-bạt-ma, Xá Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn, Ngô Nhựt Hoàn. |
983-986 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu |
|
Indrapura-Chiêm Thành (Champa) |
? |
Lưu Kỳ Tông, Lưu Kế Tông, Liu Ji-zong, |
986-989 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tướng người Việt cướp ngôi, tự xưng vương Champa. Thần dân Champa theo Islam chạy sang nhà Tống, đặc biệt Hải Nam và Quảng Châu để tị nạn. Tín đồ Islam ở Champa theo Bằng Vương La ở phía Nam nổi dậy chống Lưu Kỳ Tông. |
Vương triều thứ 7: (991-1044): Vijaya-Chiêm Thành (Champa) |
Harivarman II |
Dịch-lợi Băng-vương-la, Tên hiệu: Sri Harivarmadeva, |
988-997 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Jarai (Jrai) Harivarman II, dời thủ đô Champa về Indrapura. Ranh giới Đại Cồ Việt và Champa trong giai đoạn này tại đèo Ngang. |
Yang Puku Vijaya Sri
|
Thất-ly Bì-xà-da-bạt-ma, Po Allah, Tên hiệu: Yang Puku Vijaya Sri, Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi, |
998-1006 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Jarai (Jrai) Con vua Harivarman II. Lần đầu tiên vua Champa sang Mecca (Makkah) hành hương. Islam cùng với đạo Hinduism phát triển. Trung tâm quyền lực đầu tiên đặt tại Vijaya. |
|
|
Harivarman III |
Dịch-lợi Ha-lê-bạt-ma, Hà Lê Bạt Mã, Tên hiệu: Sri Harivarmadeva, |
1007-1018 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Giống lúa Chiêm lần đầu tiên đưa sang Trung Quốc. |
Vijaya |
Yang Pu ku Sri
|
Thi Nặc Bài Ma Diệp, Chế-mai-pa Mộ-tài (Chemeipai Moti). Tên hiệu: Paramesvaravarman II. |
1018-1030 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), vị Hoàng đế đầu tiên đổi quốc hiệu là Đại Việt. |
Vikrantavarman IV |
Dịch-lợi Bì-kiến-đà-bạt-ma, Yang pon ku Sri Vikrantavarmadeva |
1030-1041 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Paramesvaravarman II |
|
Jaya Simhavarman II |
Sạ Đẩu, Po Tik, Tên hiệu: Yang po ku Sri Simhavarmadeva |
1041-1044 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Vikrantavarman IV. Vua Lý Thái Tông đánh phá thành Phật Thệ, bắt Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea). |
|
Vương triều thứ 8: (1044-1074) Kauthara-Chiêm Thành (Champa)
|
Jaya Paramesvaravarman I |
Ứng Ni, Quách Gia Di, Isvaramurti, Tên hiệu: Yang Po Ku Sri Jaya Paramesvaravarmadeva. |
1044-1060 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Tướng Champa Quách Gia Di, giết vua Sạ Đẩu, dâng cho vua Lý Thái Tông. Thần dân Champa chạy lên Tây Nguyên lánh nạn thành người Rhadé. |
Bhadravarman III |
? |
1060-1061 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Jaya Paramesvaravarman I. |
|
Rudravarman III |
Chế Củ, Yang Po Ku Sri Rudravarmadeva, |
1061-1074 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Jaya Paramesvaravarman I, em trai vua: Bhadravarman III. Vua Lý Thánh Tông chiếm Vijaya bắt vua Rudravarman III đưa về Thăng Long. |
|
Vương triều thứ 9: (1074-1139) Indrapura- Chiêm Thành (Champa) |
Harivarman IV |
Hoàng tử Than (Thân), Vishnumurti, Madhavamurti, Devatamurti, Tên hiệu: Yang Po Ku Vijaya Sri Harivarmmadeva, |
1074-1080 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Cha một quý tộc họ Dừa (bộ tộc phía bắc), mẹ họ Cau (bộ lạc phía nam). |
Jaya Indravarman II |
Chế Ma Na, Hoàng tử: Vak, Vak Yang Devatamurtti, Tên hiệu: Yang Po Ku Sri Jaya Indravarmmadeva Devatamurtti, Tên truy tặng: Paramabuddhaloka |
1080-1081 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Harivarman IV. Lên ngôi vua lúc 9 tuổi. (Nhường ngôi vua).
|
|
Paramabhodhisatva |
Si-bà Ra-ma Bồ-đề Sát-bà, Hoàng tử: Pan (Phan), Tên hiệu: Yang Po Ku Vijaya Sri Paramabhodhisatva. |
1081-1086 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Hoàng tử Vak còn nhỏ 9 tuổi, nên Hoàng tử Pan là chú lên thay. Sau đó lại nhường ngôi cho hoàng tử Vak (Chế Ma Na). |
|
Jaya Indravarman II (restore) |
Chế Ma Na, Hoàng tử: Vak, Vak Yang Devatamurtti, Tên hiệu: Yang Po Ku Sri Jaya Indravarmmadeva Devatamurtti, Tên truy tặng: Paramabuddhaloka |
1086 -1113 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Làm vua lần 2. Tôn giáo: Hindu Con vua Harivarman IV. |
|
Harivarman V |
Hoàng tử: Sundaradeva, Tên hiệu: Sri Harivarmadeva |
1114-1129 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Cháu vua Jaya Indravarman II (Chế Ma Na). Vua Harivarman V không người thừa kế nên đề cử con nuôi Devaraja làm Thái tử. |
|
Vương triều thứ 10: (1139-1145) Vijaya- Chiêm Thành (Champa) |
Jaya Indravarman III |
Jaya Indravarman, Po Sulika, Thái tử: Dav Veni Laskmi Sinyang, Tên hiệu: Devaraja, Tên truy tặng: Rudraloka. |
1139-1145 Chiến tranh 10 năm |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con nuôi vua Harivarman V. |
Vương triều thứ 11: (1145-1318) Vijaya- Chiêm Thành (Champa) |
Rudravarman IV |
Parabrahman, Tên hiệu: Sri Rudravarmadeva, Tên truy tặng: Paramabrahmaloka, |
1145-1147 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Năm 1145 bị quân Khmer truy lùng vua bỏ Vijaya chạy lên cao nguyên: Rhade, Jarai, Churu, Raglai, Bahnar, … |
Jaya Harivarman I |
Chế Bì La Bút, Chế Bì Ri Bút, Hoàng tử: Sivanandana, Ratnabhumivijaya, Tên hiệu: Sri Jaya Harivarmmadeva, |
1147-1166 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua Rudravarman IV. Chính hậu: Jinnyan. |
|
Jaya Harivarman II |
Hoàng tử: Sakan, Sakan Vijaya, |
1166-1167 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Jaya Harivarman I |
|
Jaya Indravarman IV |
Po Klung Girai, Po Klong Garai, Po Klau Girai, Jaya Indravarman, Tên hiệu: Sri Jaya Indravarmadeva,
|
1167-1190 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Jarai (Jrai) Người Islam ở đảo Hải Nam dạy quân vua Champa cách cưỡi ngựa xung trận. |
|
Suryajayavarman (vua Khmer) |
Vua Khmer tại Vijaya |
1190-1191 |
Champa trở thành thuộc địa của Chân Lạp. Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor lần thứ nhất. |
|
Jaya Indravarman V (vua Champa)
|
Rasupati,
|
1191-1192 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Rasupati tự xưng vua xứ Vijaya. |
|
Suryavarman (vua Khmer) |
Hoàng tử: vidyanandana, Vua Khmer tại Panduranga 1190-1192, Vua Khmer tại Vijaya năm 1192. |
1192-1203 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu |
|
Đế quốc Khmer chiếm đóng |
Dhanapati, |
1203-1220 |
Quân đội Khmer dẹp cuộc nổi dậy trên Cao Nguyên Champa. Champa trở thành một tỉnh của đế quốc Angkor lần thứ hai khoảng 17 năm. |
|
Jaya Paramesvaravarman II |
Hoàng tử: Angsaraja, Sri Ajirang,
|
1220-1254 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Jaya Harivarman II Nhiều bộ lạc trên Tây Nguyên về thần phục. |
|
Jaya Indravarman VI |
Hoàng tử: Sakan, Sakan Vijaya, Harideva, |
1252-1257 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Em vua: Jaya Paramesvaravarman II |
|
Indravarman V |
Cei Harideva, Jaya Simhavarmadeva, Tên hiệu: Paramodbhava |
1257-1285 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Con vua: Jaya Paramesvaravarman II. Vợ: Paramaratnastri, Suryalaksmi, Gaurendraksmi. Hậu duệ (con): Hoàng tử: Jaya Simhavarma III, Công chúa: Suryadevi. Binh lính Champa theo Islam thua trận sang định cư đảo Hải Nam, nơi Champa đi lập nghiệp năm 992 thời Lưu Kỳ Tông. |
|
Jaya Simhavarman III |
Chế Mân, R'cam Mal, Hoàng tử Harijit, Raja Kembayat, |
1285-1307 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai), Con vua: Indravarman V, Con Hoàng hậu: Gaurendraksmi Các người vợ: - Bhaskaradevi (Islam tại Java), - Tapasi (Islam tại Java), - Paramecvari (Huyền Trân, Đại Việt). Vua Trần Nhân Tông sang ở Champa 9 tháng, hứa gã Huyền Trân cho Vua Chế Mân. Huyền Trân chạy trốn khỏi Champa. |
|
Jaya Simhavarman IV |
Chế Chí, Chế Dà La, Hoàng tử: Po Sah, Tên hiệu: Harijitatmaja. Tên vương: Jaya Simhavarman IV |
1307-1312 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) và dòng máu Java (Islam). Chế Chí là con vua Chế Mân và chánh hậu Bhaskaradevi (Islam Java). Chế Chí bị bắt và qua đời tại Thăng Long. |
|
Jaya Simhavarman V |
Chế Năng, Chế Đà A Bà Niêm, Chế Đa A Ba, |
1312-1318 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) và dòng máu Java (Islam). Chế Năng là con vua Chế Mân và hoàng hậu Tapasi (Islam Java). Chế Năng thua trận cùng hoàng gia chạy sang Java lánh nạn quê hương mẫu hậu Tapasi. Đây là đợt di dân thứ ba của người Champa đi Java và hải ngoại. |
|
Vương triều thứ 12: (1318-1390) Vijaya-Chiêm Thành (Champa) |
Jaya Ananda |
Chế Anan, Thủ (Patalthor), Tên hiệu: Jaya Ananda, |
1318-1342 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Hậu duệ: Chế Mỗ Chế Bồng Nga. Chế Anan là thống soái quân lực của vua Chế Năng. |
Maha Sawa |
Trà Hòa, Trà Hòa Bồ Đề, |
1342-1360 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Trà Hòa con rể vua Jaya Ananda (Chế Anan). Trà Hòa thuộc dòng dõi vua Chế Mân. |
|
Jaya varman |
Chế Bồng Nga, Sultan Zainal Abidin, R'cam Bunga, Jaya R'cam B'nga, Anak Champa Bunga, Ngo-ta-Ngo-che, Tên hiệu: Jaya varman.
|
1360-1390 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Con vua: Chế Anan (Jaya Ananda) Hoàng hậu (vợ): Siti Zubaidah (Kelantan-Malaysia) Hậu duệ (con): - Chế Ma Nô Đà Nan, - Chế San Nô, - Công chúa Puteri Amina. Vua Chế Bồng Nga đánh chiếm Thăng Long 4 lần. |
|
Vương triều thứ 13: (1390-1458) Vijaya-Chiêm Thành (Champa) |
Jaya Simhavarman VI |
La Ngai, La Khải, Ko Cheng, Tên hiệu: Jaya Simhavarmadeva, Tên vương: Sri Jayasimhavarmadeva, |
1390-1400 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu La Khải là phó tướng của Chế Bồng Nga, đưa thi thể Chế Bồng Nga làm thủ tục Islam (Hồi giáo). Hoàng hậu (vợ) tên Paramesvari. Hậu duệ (con): Indravarman VI. La Khải cai trị khắt khe, hai con trai của vua Chế Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy sang Đại Việt xin tị nạn. |
Indravarman VI Ngauk Klaung Vijaya Chang-pa-ti-lai |
Ba Đích Lại, |
1400-1441 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Con vua: Jaya Simhavarman VI. Nhà Hồ nam tiến năm 1400, 1402, 1403. Champa bắc tiến năm 1407. |
|
Virabhadravarman
|
Srindra Visnukirti |
1441-1444/46? |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Cháu vua: Jaya Simhavarman VI, cũng là cháu vua: Indravarman VI. |
|
Vương triều thứ 14: (1458-1471) Vijaya-Chiêm Thành (Champa)
|
Maha Vijaya |
Maha Bí Cai |
1441-1446 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Cháu vua: Ba Đích Lại. Soán ngôi của anh trai là: Maha Kali (Maha Quý Lai). Vua Lê Nhân Tông tiến chiếm Vijaya bắt công chúa Po Sah Ina. Nhiều hoàng tôn Champa chạy lên Tây Nguyên như: Trà Toàn (Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). |
Maha Kali |
Maha Quý Lai |
1446-1449 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Anh trai vua: Maha Vijaya (Maha Bí Cai) Vua Lê Nhân Tông đánh lên Tây Nguyên tiêu diệt các dân tộc người Thượng chiếm xứ Bồn Man (Jarai-Kontum). |
|
Maha Kaya |
Maha Quý Do, Maha Kido, Bí Do
|
1449-1458 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Hindu Quý Do em vua: Maha Kali (Maha Quý Lai), giết anh Quý Lai và cướp ngôi vua.
|
|
Maha Saya |
Maha Trà Duyệt, Bàn La Trà Duyệt, Maha Bàn La Trà Duyệt, Po Dam, Po Kathit, |
1458-1460 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Con vua: Maha Vijaya (Maha Bí Cai). Trà Duyệt giết vua Maha Kaya (Maha Quý Do), tự xưng vương, hiệu Maha Trà Duyệt. |
|
Maha Sajan
|
Maha Trà Toàn, Bàn-La Trà Toàn, Po Kabrah, Panluo Chaquan, Chandranekalawa. |
1460-1471 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Trà Toàn em vua: Trà Duyệt. Vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) chặt đầu vua Trà Toàn tại Nghệ An và treo trên đầu thuyền khắc chữ: “Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi thủ”. Hậu duệ (Hai hoàng tử): Indravarman và Bàn La Trà Ko Lai (Pau Liang) chạy sang tị nạn Melaka. Số khác chạy sang Kelantan (Malaysia), Lào và Kampuchea. Vua Lê Thánh Tông (Đại Việt) đã tàn sát thần dân Champa, phá hủy thành Vijaya. Đồng hóa Champa vào xã hội Đại Việt. |
|
Maha Sajai |
Maha Trà Toại, Bàn-La Trà Toại, Po Kabrih,
|
1471-1474 |
Vua Chiêm Thành (Champa) (Raja-di-raja) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Trà Toại em vua: Trà Toàn. Lê Thánh Tông sai tướng Lê Niệm lên Tây Nguyên bắt Maha Sajai (Trà Toại) đưa hành hình tại Thăng Long. Thành Đồ Bàn tại Vijaya-Degar hoàn toàn bị xóa sổ. |
|
|
Wan Bo Tri Tri |
Wan Bo, Sultan Wan Abu Adullah. |
1471, 1474-1478 |
Vua Chiêm Thành (Champa) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Wan Bo Tri Tri là con rể của vua Maha Sajan (Maha Trà Toàn). Wan Bo rời Patani đến Champa để giúp cha vợ là Trà Toàn chống Đại Việt. Wan Bo xưng vương và cho lui quân về Panduranga (Phan Lung). |
|
Wan Abu Yusof |
|
1478 |
Vua Chiêm Thành (Champa) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Cháu của Wan Bo (Wan Bo Tri Tri) Xưng vương Chiêm Thành tại Panduranga |
|
Wan Abdul Kadir |
Kou Lai |
1479-? |
Vua Chiêm Thành (Champa) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Rhade, Jarai) Cháu của Wan Bo (Wan Bo Tri Tri) Xưng vương Chiêm Thành tại Panduranga |
Hình 11. Vua Chế Bồng Nga (Sultan Zainal Abidin, R'cam Bunga), Champa (Champa empire) tấn công Thăng Long (Hà Nội) từ năm (1360-1390).
7. Panduranga (757-1832): Ninh Thuận, Bình Thuận
Panduranga (757-1693):
Căn cứ vào các bia ký Champa, tư liệu cổ Việt Nam và Trung Hoa, các nhà nghiên cứu phương Tây đã phác họa lịch sử vương quốc Champa một cách tổng thể từ thế thế kỷ thứ 2 đến thể kỷ 15 (1471), năm thất thủ Vijaya, tức là thành Ðồ Bàn (G. Maspero: 1928); G. Coedes: 1964). Sau năm 1471, các bia ký Champa không còn xuất hiện, nên một số nhà nghiên cứu ít quan tâm đến lịch sử cận đại của Panduranga (Champa).
Theo nhiều thư tịch cổ Chăm, người Chăm sống ở tiểu bang Panduranga (Phan Rang và Phan Rí) còn lưu trữ rất nhiều văn bản cổ viết bằng chữ Thrah (Srah) liên quan đến lịch sử và nền văn minh Champa sau năm 1471 (P-B. Lafont: 1980). Trong kho tàng thư tịch cổ này, Sakkarai Dak Rai Patao, viết về Biên Niên Sử của vua chúa Panduranga.
Theo Ts. Putra Podam, lịch sử Champa có giai đoạn mang danh xưng Hoàn Vương (Huánwáng) từ năm (757-859), đóng đô tại Panduranga-Kauthara. Hoàn Vương được xem là tiền thân của Panduranga được biết đến đầu tiên từ năm 757 (Hoàn Vương tại địa khu Panduranga) và tồn tại đến hết triều vương Panduranga là vua Po Saot (Bà Tranh) vào năm 1692. Năm 1693 đánh đấu danh xưng Panduranga đã được Việt Nam đổi tên Thuận Thành Trấn (1693 - 1832).
Theo Ts. Po Dharma, trong Biên Niên Sử Panduranga (Sakkaray Dak Rai Patao), Panduranga được biết đến thời kỳ tiền sử gồm 5 vị vua gồm Po Aluah, Po Binnasur, Po Putik , Po Sulika, Po Klong Garai nhưng không cho biết trị vì từ năm nào. Theo Ts. Po Dharma thời kỳ lịch sử của Panduranga bắt đầu từ Triều đại Po Sri Agarang (1193-1235 hay 1205-1247), lên ngôi năm Sửu, thoái vị năm Mùi (dị bản khác cho là năm Ngọ), trị vì 43 năm, đóng đô ở Bal Hanguw (gần biên giới Krong Pha, Dalat).
Một số nghiên cứu khác cho rằng, Panduranga tồn tại từ (1611 - 1692). Tính từ năm thất thủ Kauthara (1611) và tồn tại đến hết triều vương Po Saot (Bà Tranh) vào năm 1692 đóng đô tại Panduranga và chuyển sang triều vương Po Saktiraydapatih (Bà Tử), trị vì (1695-1727) đóng đô tại Thuận Thành trấn (Panduranga).
Thuận Thành Trấn (1693-1832):
Thuận Thành Trấn, chính thức tồn tại từ năm 1693 đến hết năm 1832. Năm 1692, nhà Nguyễn tấn công Panduranga-Champa, thay đổi danh xưng “Panduranga” thành “Trấn Thuận Thành” và thành lập phủ Bình Thuận đầu tiên trên lãnh thổ của vương quốc này, tập trung những cư dân người Kinh sinh sống ở Champa, cư dân này là công dân của triều đình Huế.
Năm 1771, Champa trở thành nạn nhân của cuộc chiến giữa Tây Sơn làm chủ ở phương bắc và Nguyễn Ánh chiếm đóng Sài Gòn để làm hậu cứ. Nằm trên địa thế bị kèm kẹp giữa lãnh thổ của Tây Sơn và Nguyễn Ánh, vương quốc Champa bị lôi kéo vào cuộc chiến giữa người Việt và chấp nhận phải qui phục phe thắng trận dù là Nguyễn Ánh hay Tây Sơn. Kể từ đó, Champa hoàn toàn tùy thuộc vào kết quả của cuộc chiến giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh.
Năm 1802, Nguyễn Ánh thắng trận, lên ngôi lấy niên hiệu là Gia Long, quyết định phục hưng lại nền độc lập Champa và giao quyền cai trị cho Po Saong Nyung Ceng, người đã từng giúp đỡ Nguyễn Ánh chống quân Tây Sơn. Bên cạnh đó, vua Gia Long còn ban cho người kế cận trong chiến trường chống Tây Sơn là Lê Văn Duyệt lên làm Tổng Trấn Gia Định Thành và giao quyền bảo trợ vương quốc Champa ở phía nam của triều đình Huế.
Kể từ đó, nền hòa bình và thịnh vượng trở lại trên vương quốc Champa, một quốc gia đặt dưới quyền đô hộ của triều đình Huế qua trung gian của Lê Văn Duyệt, phó vương ở miền Nam . Sau ngày băng hà của vua Gia Long vào năm 1820, vua Minh Mệnh lên ngôi, tìm cách xóa bỏ qui chế Gia Định Thành của Lê Văn Duyệt và đưa vương quốc Champa vào vòng kiểm soát trực tiếp của triều đình Huế. Chiến tranh giữa vua Minh Mệnh và Lê Văn Duyệt bắt đầu bùng nổ gây ảnh hưởng trực tiếp trên vương quốc Champa. Năm 1832, sau khi Lê Văn Duyệt (tổng trấn Gia Định Thành) từ trần, lịch sử Champa cũng kết thúc khi vua Minh Mệnh cho quân tiến vào tiêu diệt và diệt chủng thần dân Champa, xóa danh xưng vương quốc Champa, xóa Champa khỏi bản đồ thế giới và sáp nhập hoàn toàn vùng đất của vương quốc Champa vào nước Việt Nam. Champa trở thành khúc giữa của bản đồ Việt Nam hiện đại.
Triều đại |
Tên tiếng Phạn |
Tên khác |
Thời gian |
Dòng dõi |
---|---|---|---|---|
Vương triều thứ 1: Bal Banây |
Po Aluah |
Yang Puku Vijaya Sri, Dương-phổ-cu Bi-trà-xá-lợi |
998-1006 |
Vua Chiêm Thành (Champa) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Jarai, Rhade) Theo Po Dharma: Vua huyền sử Panduranga? |
|
|
|
Theo Po Dharma: Vua huyền sử Panduranga? |
|
Po Putik (Po Putrik) |
? |
?-? |
Theo Po Dharma: Vua huyền sử Panduranga? |
|
Po Sulika |
Bà Gia Nễ Các Đáp Jaya Harivarman II |
? – 1167 1166-1167 |
Theo Po Dharma: Vua huyền sử Panduranga? |
|
P o Klong Garai |
Jaya Indravarman IV Bà Khắc Lượng Gia Lai |
1167-1190? 1167-1205 |
Vua Chiêm Thành (Champa) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Raday (Jarai, Rhade) Theo Po Dharma: Vua huyền sử Panduranga? |
|
Vương triều thứ 2: Bal Hanguw |
Po Sri Agarang |
Kế Khả |
1205-1247 |
Vua Panduranga |
Cei Anâk |
Kế Lực |
1247-1281 |
Vua Panduranga Con trai Sri Agarang |
|
Vương triều thứ 3: Bal Anguai |
Po Dobatasuar |
Bà Điệp |
1281-1306 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Ngài không có liên hệ thân tộc với vương triều Po Sri Agarang, |
Po Patarsuar |
Bà Bức |
1306-1328 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Em vua Po Dobatasuar |
|
Po Binnasuar |
Bà Bính |
1328-1373 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Em vua Po Patarsuar Po Binnasuar (vua Panduranga-Panrang) Khác vua Chế Bồng Nga (vua Champa tại Vijaya Degar). |
|
Vương triều thứ 4: Bal Anguai |
Po Parican |
Bà Phát |
1373-1397 |
Vua Panduranga Không có liên hệ thân tộc với vương triều Po Dobatasuar |
Vương triều thứ 5: Bal Cau |
Po Kasit |
Bà Khiết |
1433-1460 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con vua Po Parican |
Po Kabrah |
Bà Kế |
1460-1494 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con vua Po Kasit Po Kabrah đi hành hương Malaysia và hứa gả em gái công chúa Po Sah Ina kết hôn Po Haniim Per (Islam). |
|
Po Kabih |
Bà Cấp |
1494-1530 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Em vua Po Kabrah |
|
Po Karutdrak |
Bà Khứ |
1530-1536 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Em vua Po Kabih |
|
Vương triều thứ 6: Bal Cau |
Maha Sarak |
Maha Trà Lộc |
1536-1541 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Ngài không có liên hệ thân tộc với vương triều Po Parican |
Po Kunarai |
Bà Bãi |
1541-1553 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Ngài là em của Po Maha Sarak |
|
Po At |
Bà Ất
Sultan Shafi'i Ibn Abu Khasim, Sultan Yakup Shah ibu Din. |
1553-1579 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Cháu vua Po Kunarai |
|
Vương triều thứ 7: Bal Canar |
Po Klong Halau |
Bà Khắc-Lượng Khất-Lưu Po Klau Halu |
1579-1603 |
Vua Panduranga T ôn giáo: Islam Ngài không có liên hệ thân tộc với vương triều Maha Sarak |
Po Nit |
Bà Nhiếp |
1603-1613 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con vua Po Klong Halau |
|
Po Jai Paran |
Bà Thái |
1613-1618 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Em vua Po Nit |
|
Po Aih Khang |
Bà Ưng |
1618-1622 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con vua Po Jai Paran |
|
Vương triều thứ 8: Bal Canar |
Po Klaong Mah Nai
|
Bà Khắc-Lượng Như-Lai, Po Maha Taha, Po Klong M’hnai, Po Klong Menai, Wan Abdul Muzaffar Walaliyullah. |
1622-1627 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Churu, Raglai |
P o Rome
|
Bà Lâm, Agong Ronan, Nik Mustafa, Nik Mustafa Bin Wan Abul Muzaffar Waliyullah, Sultan Abdul Hamid Shah, Sultan Abdul Hamid Shah Bin Syarif Wan Abu Muzaffar Bin Syarif Wan Abdullah Umdatuddin, Ong Tpouo, Ja Kathaot, Po Rome Kathaot, Yang Po Rome, Yang Thaok Po Rome, Cei Asit, Cahya, Po Gahluw. |
1627-1651 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Thân phụ: Wan Abul Muzaffar, Sắc tộc Churu Thân Mẫu: Chăm Con rể vua Po Klaong Mah nai. Vợ (vương hậu): Hoàng hậu Sucih (Bia Sucih hay Than Cih), Thứ hậu Than Can (Bia Than Can) là công chúa Hadrah Hajan Kapak tộc Rhade, Tam hậu Puteri Siti (Công chúa Siti), Công nữ Ngọc Khoa, Bia Laku Makam (Hoàng hậu Laku Makam), Bia Hatri (Hoàng hậu Hatri), Bia Sumut (Hoàng hậu Sumut). |
|
Po Nrop
|
Bà Thấm, Po Nraop, Po Ibrahim, Nik Ibrahim, Sultan Ibrahim, Sultan Nik Ibrahim Bin Nik Mustafa. |
1651-1653 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con trai trưởng vua Po Rome Thân phụ: Po Rome, sắc tộc Churu Thân Mẫu: Kelantan-Malaysia |
|
Po Saktiraydapaghoh |
Bà Thích |
1654-1657 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con rể vua Po Rome Sắc tộc: Churu, Raglai |
|
Po Jatamah |
Bà Chất, Po Jatamuh, Wan Muhammad, Sultan Wan Muhammad Amin. |
1657-1659 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Con rể vua Po Saktiraydapaghoh Sắc tộc: Churu, Raglai |
|
Po Saot
|
Bà Tranh, Po Sot, Wan Daim, Raja Wan Daim.
|
1659-1692 |
Vua Panduranga Tôn giáo: Islam Po Saot là cháu trai của vua Po Rome (vua theo Islam) với Hoàng hậu người Rhade tên Bia Than Chan (con gái của thủ lĩnh người Rhade). Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Saktiraydapatih
|
Bà Tử, Kế Bà Tử, Po Saktiray Depatih, Po Saktiray Da Patih, Po Saktiraydaputih. |
1695-1727 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Em ruột vua Po Saot Po Saktiray Depatih là cháu trai của vua Po Rome với Hoàng hậu người Rhade tên Bia Than Chan (con gái của thủ lĩnh người Rhade). Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Ganuhpatih |
Bà Thị |
1727-1730 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con của vua Saktiraydapatih Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Thuntiraydaputih |
Nguyễn Văn Thuận |
1730-1732 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con của vua Po Saot Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Rattiraydaputao |
Nguyễn Văn Đạt |
1732-1763 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con trai của Po Thuntiraydaputih Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Tisundimahrai |
Nguyễn Văn Thiết |
1763-1765 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Ngài thuộc triều đại thân tộc của vương triều vua Po Mah Taha Sắc tộc: Churu, Raglai |
|
Po Tisuntiraydapaghoh |
Nguyễn Văn Tịch |
1768-1780 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con của Po Rattiraydaputao Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Tisuntiraydapuran |
Nguyễn Văn Tá |
1780-1781 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con trai Po Tisuntiraydapaghoh hậu duệ của Po Saktiraydapatih. Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Krei Brei
|
Nguyễn Văn Chiêu, Cei Brei, Cei Krei Brei, Muhammad Ali, Muhammad Ali ibn Wan Daim. |
1783-1786 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con của Po Tisuntiraydapaghoh. Anh trai Po Tisuntiraydapuran Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Tisuntiraydapuran |
Nguyễn Văn Tá |
1786-1793 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Lần 2 Tôn giáo: Islam Con trai Po Tisuntiraydapaghoh Hậu duệ của Po Saktiraydapatih. Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Po Chongchan |
Nguyễn Văn Tòng |
1796 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Con trai Po Tisuntiraidapuran Sắc tộc: Churu, Raglai, Rhade |
|
Vương triều thứ 9: Bal Canar
|
Po Ladhuanpaghuh |
Nguyễn Văn Hào |
1793-1799 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Tôn giáo: Islam Sắc tộc: Churu, Raglai, Phó cai trị là Po Saong Nyung Ceng (1794-1799). Nổi bật: cuộc khởi nghĩa Tuan Phaow (Tuần Phủ), một vị công hầu đến từ Malaysia. |
Po Saong Nyung Ceng |
Nguyễn Văn Chấn, Po Ceng, |
1799-1822 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Sắc tộc: Chăm Hậu duệ (con trai) Po Phaok The. Po Klan Thu làm phó vương |
|
Po Bait Lan |
Nguyễn Văn Lân |
1822 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Sắc tộc: Chăm Minh Mệnh đưa Bait Lan lên nối ngôi, nhưng không thành, vì có sự chống đối của Lê Văn Duyệt. |
|
Po Klan Thu |
Nguyễn Văn Vĩnh |
1822-1828 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Sắc tộc: Chăm Hậu duệ (con trai) là Cei Dhar Kaok Cei Dhar Kaok làm phó vương |
|
Po Phaok The |
Nguyễn Văn Thừa |
1828-1832 |
Thuận Thành trấn (Panduranga) Sắc tộc: Chăm Con Po Saong Nyung Ceng Cei Dhar Kaok (Nguyễn Văn Nguyên) làm phó vương |
Hình 12. Năm 1000, đánh dấu sự nhường bước đầu tiên của Champa trước sức ép của dân tộc Việt, tức là một sự thoái lui dần về phương nam, hơn 400 năm (1000-1471) thủ đô Vijaya tồn tại và cáo chung, và hơn 800 năm (1000-1832) vương quốc Champa cáo chung. Triều đại Vijaya chính thức cáo chung, Champa tan rã và lui dần về phía nam. Tướng Bố Trì Trì (vị tướng Champa theo Islam) chạy vào phía nam chiếm vùng Panduranga (sách sử Việt gọi là Phan Lung) xưng vua Champa. Panduranga hoàn toàn Islam là Quốc giáo từ thế kỷ 15 (1471) cho đến thế kỷ 19 (1832). Nguồn ảnh: SEA Heritage & History (Di sản và lịch sử Đông Nam Á).
Hình 13. Bản đồ Panduranga (thuộc Champa) từ năm 757-1832. Bản đồ gốc: Champaka1.
Sau năm 1858, Việt Nam, Lào, Kampuchea trở thành xứ thuộc địa thuộc Pháp (Đông Dương thuộc Pháp), thì Việt Nam bị chia cắt ra làm ba kỳ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine) thành ba nước khác nhau.
- Nam Kỳ (Cochinchine) là thuộc địa, coi như lãnh thổ của Pháp. (Nước Khmer - Kampuchea thuộc Pháp).
- Trung Kỳ (Annam) đặt dưới sự che chở, bao bọc của Pháp. (Nước Champa thuộc Pháp)
- Bắc Kỳ (Tonkin) đặt dưới sự che chở, bao bọc của Pháp. (Nước Đại Việt thuộc Pháp)
Hình 14. Bản đồ Việt Nam, Lào, Kampuchea trở thành xứ thuộc địa thuộc Pháp (Đông Dương thuộc Pháp), Việt Nam bị chia cắt ra làm ba kỳ: Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine).
Hình 15. Bản đồ Việt Nam và Đông Nam Á, từ sau năm 1975.