Giáo sĩ (Acar) sao chép Thiên kinh Koran dùng chữ Ả Rập, không phải chữ Jawi

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
Mar 26, 2024, 10:10 PM

Tác giả: Ts. Putra Podam

Email: putrapodam@gmail.com

 

 

Thiên kinh Quran (Koran) là Thiên kinh của đạo Hồi giáo (Islam, Awal và 73 nhánh Islam được dùng). Thiên kinh Koran được dùng chữ Ả Rập để ghi tiếng Ả Rập. Như vậy, mọi tín đồ Hồi giáo (Islam) trên toàn thế giới phải học chữ Ả Rập và tiếng Ả Rập. Một số tín đồ Islam không được đào tạo bài bản nên chỉ biết đọc Thiên kinh viết bằng chữ Ả Rập nhưng không biết nghĩa của tiếng Ả Rập.

Trường hợp giáo sĩ (Acar) của người Chăm Bani (Chăm có đạo) hay Chăm theo Bani (Chăm theo đạo), tức Chăm theo tôn giáo Awal (Hồi giáo dòng Awal, hay Hồi giáo Champa) từ thế kỷ 17, hay trước đó Champa đã tiếp nhận Islam từ thế giới Ả Rập thế kỷ thứ 10, thì các Wali, Ulama, Imam hay các giáo sĩ (Acar) của người Chăm đều phải dùng chữ Ả Rập để sao chép Thiên kinh Koran. Cho đến ngày nay, giáo sĩ (Acar) cũng dùng chữ Ả Rập để sao Thiên kinh Koran (và dùng chữ Thrah Chăm hay tiếng Việt để giải thích). Giáo sĩ (Acar) hoàn toàn không biết chữ Jawi hay không dùng chữ Jawi để sao chép hay giải thích trong Thiên kinh Koran.


1. Chữ cái Ả Rập (Arab - Arabic)

Bảng chữ cái tiếng Ả Rập có 28 chữ cái, tiếng Ả Rập không có chữ viết hoa. Có ba nguyên âm thường được viết: alif (a), waw (w) và yaa (y). Các chữ cái còn lại là phụ âm.

Chữ viết Ả Rập phát triển từ hệ thống chữ viết Nabataean Aramaic. Nó đã được sử dụng từ thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, nhưng tài liệu sớm nhất, một dòng chữ bằng tiếng Ả Rập, Syriac và Hy Lạp, có từ năm 512 sau Công nguyên.

Chữ cái Ả Rập có ít phụ âm hơn tiếng Ả Rập, thế kỷ thứ 7, chữ cái Ả Rập được tạo mới bằng cách thêm dấu chấm vào mỗi chữ cái sao cho phù hợp để tránh nhầm lẫn giữa phụ âm này với phụ âm khác.

Chú ý: Loại hệ thống chữ viết abjad thì hướng viết:

Chữ cái viết ngang từ phải sang trái,

Chữ số viết từ trái sang phải.

Hình 1. Bảng chữ cái Ả Rập (Arabic). Thiên kinh Koran là tiếng Ả Rập được ghi bằng chữ Ả Rập.

 

Đối với đại khối các dân tộc Ả Rập, Thiên kinh Koran nguyên bản bằng ngôn ngữ Ả Rập (Arabic) là một kiệt tác phẩm thi văn. Kinh Koran không hẳn là một cuốn thơ trường thiên nhưng là một tác phẩm văn xuôi có vần có điệu rất thích hợp với dân du mục ở nơi sa mạc. Điều này, thuận lợi cho Thiên kinh Koran nhanh chóng truyền bá khắp bán đảo Ả Rập qua hình thức truyền khẩu.

Thiên kinh Qur'an (/ kʊˈrɑːn /, kor-ahn; tiếng Ả Rập: القرآن, viết theo Latin: al-Qurʼān, phát âm tiếng Ả Rập: [alqur'ʔaːn]).

Qur'an (Koran), là Thiên kinh của Islam, được tín đồ Bani Islam tin là mặc khải từ Thượng đế Allah. Đây là tác phẩm hay nhất trong văn học cổ điển Ả Rập. Koran được sắp xếp thành 114 chương (سورة, sūrah), bao gồm các câu (āyāt آيات; آية, āyah), sách (کتاب‎‎, kitāb). Trong phần lớn văn cảnh, thường đi chung với mạo từ xác định (al-), từ này được gọi là "mạc khải" (وحي, waḥy), điều đã được "gửi xuống" (tanzīl) trong một khoảng thời gian. Những bản dịch khác của Thiên kinh Qur'an là: al-Coran, Koran, Kuran, và al-Qur'an".

Surah Al-Fatihah (Fathah)

"1. بِسْمِ اللَّهِ الرَّحْمَٰنِ الرَّحِيمِ
2. الْحَمْدُ لِلَّهِ رَبِّ الْعَالَمِينَ
3. الرَّحْمَٰنِ الرَّحِيمِ
4. مَالِكِ يَوْمِ الدِّينِ
5. إِيَّاكَ نَعْبُدُ وَإِيَّاكَ نَسْتَعِينُ
6. اهْدِنَا الصِّرَاطَ الْمُسْتَقِيمَ
7. صِرَاطَ الَّذِينَ أَنْعَمْتَ عَلَيْهِمْ غَيْرِ الْمَغْضُوبِ عَلَيْهِمْ وَلَا الضَّالِّينَ  "

Hình 2. Thiên kinh Surah Al-Fatihah là tiếng Ả Rập được ghi bằng chữ Ả Rập.

 

2. Chữ Jawi (Akhar Jawi)

Chữ Jawi là thuật ngữ khác để chỉ dạng chữ Ả Rập (Arabic) nhưng được thêm bớt một số chữ cái trong hệ thống chữ Ả Rập, để ghi phiên âm cho người Melayu Islam bản địa.

Người Jawa, thường để chỉ nhóm người ở ba giai đoạn chính khác nhau. Thời kỳ đầu, khi nói đến người Jawa thì một số nhà khoa học thường nghĩ đến những người theo Islam có da ngâm đen như Islam Trung Đông, Indian, Bangladesh, Indonesia, Malaysia, … Thời kỳ thứ hai, Jawa chỉ giới hạn cho người Islam tại Indonesia, Malaysia, hay Jawa Kur gồm Islam Chăm Cambodia và Chăm Châu Đốc. Thời kỳ thứ ba, người Jawa được xác định cụ thể là một dân tộc ở Indonesia và quê hương của người Jawa là phần trung và đông của đảo Jawa. Người Jawa có dân số khoảng 100 triệu người, là dân tộc đông nhất ở Indonesia và có một nền lịch sử rực rỡ.

Khi nói đến chữ Jawi, lúc đầu thì nhiều người hiểu lầm là chữ của người Malay, nhưng thực tế chữ Jawi đầu tiên xuất hiện sau thời kì vương quốc Majapahit tan rã và được các học giả người Jawa ở đảo Jawa cải tiến để ghi âm tiếng Jawa, từ đó được mang tên chữ Jawi. Bia kí cổ nhất của chữ Jawi là bia kí Terengganu, được xác định niên đại vào khoảng năm 1300. Chữ Jawi ngày nay được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người Melayu ở Đông Nam Á, trong đó có người Chăm ở Việt Nam và Campuchia.

Bảng Jawi Melayu kế thừa chữ Ả Rập nhưng có bổ sung một số phụ âm như: ca, pa, nga, ga, wa, nya như bảng dưới đây:

Hình 3. Bảng chữ cái Jawi (của người Jawa) được dùng cho dân tộc bản địa Melayu.

 

Jawi Chăm có nguồn gốc từ chữ Jawi Malaysia là một loại chữ viết được kế thừa từ bảng chữ cái Ả Rập. Chữ viết này được sử dụng cho chữ viết nhiều ngôn ngữ khác nhau ở Châu Á và châu Phi như Kurdish, Persian, Ottman Turkish, Sindhi, Urdu, Malay, Pashto, và Arabi Malayalam. Sau bảng chữ cái Latin thì bảng chữ cái Saudi Arabia được sử dụng tương đối rộng rãi trên toàn thế giới.

Hiện nay chữ Jawi Chăm được sử dụng rất thông dụng cho người Chăm ở miền Trung và Nam Bộ. Đặc biệt người Chăm ở Campuchia, Thailand, Malaysia, … đều sử dụng loại chữ viết này. Chữ Jawi Chăm nói riêng và chữ Jawi (Malaysia, Indonesia, Brunei, …) nói chung được sử dụng rộng rãi trong cộng đồng người nói ngôn ngữ Nam Đảo ở khu vực Đông Nam Á.

Jawi Chăm được dùng để ghi âm tiếng Chăm từ khi nào. Chỉ biết, các văn bản chép tay xưa nhất được tìm thấy ở người Chăm chỉ vào khoảng đầu thế kỉ 19. Chữ Jawi Chăm phát triển theo từng giai đoạn nhất định và hệ thống chính tả theo đó cũng biến đổi. Văn bản chữ Jawi càng xưa thì hệ thống chính tả càng giống akhar Thrah (Srah).

Jawi Chăm ngoài các chữ cái được thêm vào mang tính chất chung của ngôn ngữ thế giới Melayu như ca, pa, ga, nga, wa và nya, thì người Chăm còn bổ sung thêm các âm trong tiếng Chăm như: nda, nja, mb. Song hành đó người Chăm còn thêm vào hệ thống nguyên âm như: e, ê, i, u, â, o, ô.

Ví dụ: Sự biến âm Ramadan (Ả Rập) thành Ramawan (Chăm). Do người Chăm xưa không phát âm được chữض  (Daad) của Ả Rập nên đã biến âm Daad thành âm "Wuat" của người Chăm.

Hình 4. Chữ “Daad” của Ả Rập trong chữ Ramadan رَمَضَان ‎ , trong khung màu đỏ.

 

Hình 5. Chữ “Daad” của Ả Rập trong hình 4, biến âm thành “Wuat” trong hình 5, do đó "Ramadan" viết thành "Ramawan"

 

Hình 6. Chữ “Daad” của Ả Rập biến âm thành “Wuat”, do đó "Ramadan" viết thành "Ramawan"

 

Chú ý: Giáo sĩ (Acar) của hệ phái Awal (Hồi giáo Awal hay Hồi giáo Champa) ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ít dùng hoặc không dùng chữ viết Jawi (Jawi Malay hay Jawi Chăm) để viết hay dùng để viết chữ trong sinh hoạt hằng ngày. Giáo sĩ (Acar) chỉ dùng chữ Ả Rập (Arabic) để sao chép Kinh sách trong Thiên kinh Koran. Mặc khác, do Acar không dùng chữ Jawi Chăm hay chữ Ả Rập trong đời sống hằng ngày, nên Acar phải dùng chữ Chăm Thrah (Srah) để viết những lời giải thích trong Kitab (sách) của Thiên kinh Koran.

 

Hình 7. Giáo sĩ (Acar) không dùng chữ Jawi Chăm hay chữ Ả Rập để ghi chú thích, mà dùng chữ Thrah Chăm (Srah Chăm) để giải thích nội dung trong Thiên Kinh Koran (Thiên kinh Koran viết bằng chữ Ả Rập và ghi tiếng Ả Rập).

 

Hình 8, 9. Chữ Jawi trên bia đá (batau nisan) trong khuôn viên thánh đường Masjid Jamiul Azhar ở Châu Giang. Ảnh: Sưu tầm.

 

Hình 10. Tín đồ Bani Islam đang học chữ Jawi Chăm - Châu Giang. Ảnh: Sưu tầm.

 

---

LINK: Bài viết  liên quan

1. Tìm hiểu nguồn gốc từ Ramawan - Đại lễ của Islam

2. Chăm Bani không đồng thuận từ "Tết" trong cụm ...