Nước Nam Bàn (tiểu quốc Jarai)

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
May 21, 2024, 11:56 PM

Nước Nam Bàn - tiểu quốc Jarai (1471-1882)

Chiến tranh Đại Việt-Champa năm 1471 kết thúc, vua Lê Thánh Tông xâm chiếm hoàn toàn khu vực Vijaya-Degar. Sau cuộc chiến, Champa bị sụp đổ và thu hẹp dần phía nam chỉ còn địa khu Aia Ru (Phú Yên) còn gọi tiểu quốc Hoa Anh (là một địa khu Champa phân bố trên một không gian từ Tây Nguyên, đèo Cù Mông đến núi Đá bia-Thạch Bi Sơn thuộc Phú Yên và cư dân nòng cốt là người Rhade), tiểu khu Kauthara (Aia Terang-Nha Trang), tiểu quốc Panduranga (Ninh Thuận, Bình Thuận) và phía Tây là tiểu quốc Nam Bàn (tiểu quốc Jarai) gồm các dân tộc trên cao nguyên (Tây Nguyên ngày nay).

Tiểu quốc Nam Bàn hay Tiểu quốc Jarai (Ala Car Patao Degar, Dhung Vijaya), được tách ra từ địa khu Vijaya-Degar sau khi Đại Việt xâm chiếm và phá hủy thành Vijaya (Đồ Bàn hay Chà Bàn) vào năm 1471.

Tiểu quốc Nam Bàn là một tiểu quốc cổ của các cư dân Nam Đảo ở Tây Nguyên (Champa) nòng cốt là tộc người Jarai và người Rhade kết hợp với những tộc người Champa Vijaya. Bộ phận hoàng tộc Champa Vijaya trong quá trình lịch sử đã đồng hóa vào văn hóa bản địa Jarai. Tiểu quốc Nam Bàn hình thành từ khoảng thế kỷ 15 và chấm dứt sự tồn tại sau khi phân rã ra thành các bộ tộc độc lập vào khoảng cuối thế kỷ 20.

Nước Nam Bàn, theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, ghi rằng, trước đây Nam Bàn thuộc đất “Chiêm Thành, khi vua Lê Thánh Tông chinh phục Chiêm Thành và mở đất đai đến núi Thạch Bi, phong dòng dõi chúa Chiêm Thành làm Nam Bàn Quốc vương và chia cho giữ đất đai từ núi Thạch Bi này trở về phía Tây, từ phủ Hoài Nhân đi theo đường thượng đạo thì phải mất 14 ngày mới đến được nước Nam Bàn, tức là đất đai của hai nước Thủy Xá và Hỏa Xá”.

Nước Nam Bàn sau này là hai nước Thủy Xá (Patao Ea) và Hỏa Xá (Patao Apui) mà ngày nay là đất các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Daklak, … tức miền đất vùng Tây Nguyên. Nếu tính từ năm 1475 trở về đến năm 2000 thì tất cả là 525 năm, nếu tính mỗi đời vua khoảng 25 năm thì có khoảng hơn 21 đời vua.

Những thông tin về các vị tiểu vương và tiểu quốc của người Jarai do giáo sĩ Marini Romain ghi chép vào năm 1646 khi ông lên Tây Nguyên truyền đạo Công giáo. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn trong Phủ biên tạp lục: “Hai vị Thủy Vương và Hỏa Vương nước Nam Bàn, nước này có 50 làng lệ thuộc, trong đó có núi Bà Nam. Núi rất cao và lớn, làm trấn sơn cho một phương Thủy Vương ở về phía đông núi Bà Nam, còn Hỏa Vương ở về phía tây núi, có địa phận riêng và làm nhà gác bằng gỗ để ở, bộ hạ có đến mấy trăm người. Khi vua đi đâu thường cưỡi voi, có hơn chục người tùy tùng đi theo, đến làng nào thì đánh ba hồi chuông, dân làng đều ra, họ làm một cái lều tranh cho vua ở (vì kiên không vào nhà dân). Họ dâng lên vua những thứ như: nồi đồng, tấm vải trắng, hoặc một cây mía, một nải chuối chẳng hạn. Vua cứ việc nhận lấy các lễ vật ấy không nề hà gì. Thu nhận lễ vật cũng không ghi chép gì, xong thì nhà vua đi. Hai Vương mặt đen và xấu nhưng vợ và thiếp thì người nào cũng có nhan sắc đẹp đẽ, họ đều bận xiêm áo của Champa.”

Theo tài liệu của triều Nguyễn, con cháu của họ Nguyễn vào Quảng Bình lập nghiệp, giữa thế kỷ 16 chúa Nguyễn vẫn có quan hệ với Patao Apui (vua Lửa), cứ vài năm một lần Patao Apui lại cho người về triều đình cống sản vật. Chúa Nguyễn cũng đã phong cho Patao Apui một chức tam phẩm võ quan. Khi nhà Nguyễn lên ngôi vẫn tiếp tục quan hệ. “Vua Minh Mạng thứ 12 (1851) cho sứ bộ Thuỷ Xá (vua Nước) đến kinh đô dâng cống và đồng thời tặng Thuỷ Xá: gấm nhà Tống 2 cây, vũ đoạn 2 tấm, trừu sa 2 xấp… cho sứ thần: bạch kim mười lạng, trừu sa lam một đoạn, quế sa ta hai tấm…”. Vào năm Minh Mạng thứ 15, nhà vua còn tặng cho Thuỷ Xá: “Một bộ đồ uống trà bằng sứ, một bộ đồ uống rượu bằng pha lê, một cái hộp bằng pha lê vẽ chỉ vàng, có cả đĩa, một hộp bằng pha lê in bóng, hai tượng người bằng mã não đỏ…”. Còn quan lại tỉnh Phú Yên vâng lệnh triều Nguyễn đã tặng cho Hỏa Xá “một chiếc độc bình bằng bạc để sau này đựng tro thiêu xác Hỏa Xá”.

Ghi chép của sử sách người Việt qua bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn vào năm 1776, khi ông làm quan hiệp trấn ở Thuận Hóa, những ghi chép của Lê Quý Đôn cho thấy từ thế kỷ 17, các vị tiểu vương người Jarai đã triều cống chính quyền Đàng Trong thường xuyên.

Theo tương truyền các vị Vua là hiện thân của Thần Gươm Y Thih (nhân vật trong các truyền thuyết của người người Rhade và Jarai. Một tài liệu khác ghi là 21 "đời vua" tiểu quốc Jarai, là người kế tục giữ gươm thần do chàng Y Thih để lại. Có ý kiến khác cho rằng gươm thần của các Patao thực ra là các bảo vật truyền ngôi của hoàng gia Champa sau khi Lê Thánh Tông tiêu diệt thành Vijaya-Degar (thành Đồ Bàn, Chà Bàn ở Bình Định).

Theo truyền thuyết về Vua Nước rằng, Yang Ju H’mang và Yang Cưk (Yang Câk) giao chiến, Ya Ia (Ya Ea hay Ya Aia) đứng ra can thiệp, được Thượng đế (Yang, Pô Allah) tin cậy giao cho việc cai quản dân làng. Yang Ia ở tận trời cao, muốn cai quản tốt dân làng Yang Ia xin Thượng đế dựng một cấp trung gian nữa là Vua Nước (Patao Ia, Patao Ea hay Patao Aia) để cai quản thế gian. Vương miện đầu tiên được trao cho người Chăm, sau này là người Jarai (Jrai) thuộc dòng R’cam (Rơ Chăm) đã giành được vương miện. Chính vì vậy, người Chăm ở trên địa khu Tây Nguyên đã nhiều lần đến đòi giành lại vương miện.

Tới thế kỷ 19, khi soạn bộ Đại Nam thực lục, nhà Nguyễn đã có những thông tin về tiểu vương Nam Bàn với những đồ cống của họ với nhà Nguyễn.

Cho đến năm 1955, dòng họ vua Nước đã trải qua 7 đời, đó là R’cam Kep (Rơ Chăm Kep) làm vua từ năm 1425 đến năm 1426, R’cam Nyen (Rơ Chăm Nhơn) làm từ 1501 đến năm 1571, R’cam Bring (Rơ Chăm Bring) làm vua từ năm 1576 đến năm 1646, R’cam Dai (Rơ Chăm Dăi) làm vua từ năm 1651 đến 1719, R’cam Guh (Rơ Chăm Guh) làm vua từ năm 1724 đến năm 1795, R’cam nyuak (Rơ Chăm Nhoach) làm vua từ năm 1800 đến năm 1870, R’cam Bo (Rơ Chăm Bo) làm vua từ năm 1897 đến năm 1955.

Vua Nước đời thứ 7 qua đời, thi thể ông được hỏa thiêu như người Champa Hindu (Balamon) thời vương quốc. Họ lấy tro chôn ngay dưới nhà mồ và thực hiện một số nghi thức theo vua chúa Champa. Nhà mồ xây cho vua như nhà rông thu nhỏ trong một khu vực thiêng liêng không cùng với khu nhà mồ của dân làng. Chỉ có vợ vua mới được chôn cất ở gần.

Hiện nay, vua Nước đời thứ 7 còn một người con gái tên là R’cam H’ra Nyrung (Rơ Chăm H’ra Nhrung), chồng của cô là Kpak Mang (Kpă Mang) cùng hai người giúp việc là ông Siu Pel và Kapak Khuai (Kpă Khoai). Già làng của Patao là Kapak Tek (Kpă Tek). Tài sản của vua Nước để lại là một thanh gươm thần cất giấu ở rừng thiêng, chỉ có vua và người giúp việc được biết, còn hai quả chuông và quần áo của vua do con cháu dòng họ R’cam (Rơ Chăm) ở Buôn Săm, huyện Ea H’leo, tỉnh Dak Lak đang cất giữ.

Po Krung Garai (vị vua thứ tư) và vua Chế Mân (vị vua thứ 12) cùng triều đại thứ 11 (11th Dynasty - Vijaya) đóng đô ở thành Đồ Bàn (Vijaya) thuộc tiểu bang Vijaya-Degar. Vua Chế Mân là hậu duệ của vị vua Po Krung Garai anh hùng Champa thuộc tộc người Rhade - Jarai.

Theo Finot và G. Maspero thì vua Chế Mân (Simhavarman III), tức R'cam Mal (Hoàng tử Harijit), đã cho xây ba công trình kiến trúc là tháp Po Krung Garai (Thủ lĩnh Rồng) tại Phan Rang (Panduranga) và hai tháp khác tại tiểu bang Vijaya-Degar là tháp Yang Prong (thần lớn, thần vĩ đại) tại tỉnh Dak Lăk và tháp Yang Mum (Mẫu thần) tại tỉnh Gialai vào cuối thế kỷ 13 đầu thế kỷ 14.

Henri Maitre, viên sĩ quan và là nhà nghiên cứu người Pháp trong công trình Les Jungles Moi (Rừng người Thượng) đã có những ghi chép chi tiết về sinh hoạt và đời sống của bộ tộc cũng như các vị tiểu vương ở đây, từ những nghiên cứu của mình ông đã gọi đây là tiểu quốc Jarai, mà trong sử Việt có nhắc tới là tiểu quốc Nam Bàn.

Hình 1. Sources: Danny Wong Tze Ken, The Nguyen and Champa during 17th and 18th Century: A Study of Nguyen Foreign Relations, Paris-San Jose: Champaka, Monograph 5, 2007, p.192.

---***---

Nam Bàn thuộc Pháp (1883-1945)

Sau khi thần dân Champa bị vua Minh Mạng (Minh Mệnh) tàn sát, sáp nhập lãnh thổ Champa vào Đại Việt và xóa danh xưng Champa trên bản đồ thế giới năm 1832. Ngày 25/8/1883 tại kinh đô Huế, một Hiệp ước Quý Mùi còn có tên hiệp ước Harmand (Hác-măng) giữa đại diện của Pháp là François-Jules Harmand - Tổng ủy (tiếng Pháp: commissaire général), đại diện ngoại giao cho nước Cộng hoà Pháp và đại diện của triều Nguyễn là Trần Đình Túc - Hiệp biện Đại học sĩ (chánh sứ), Nguyễn Trọng Hợp – Lại Bộ Thượng thư (phó sứ). Hiệp ước có tất cả 27 điều khoản với nội dung chính là xác lập quyền bảo hộ lâu dài của Pháp trên toàn bộ Việt Nam. Hiệp ước này chính thức đánh dấu thời kỳ, 1883-1945, toàn bộ Việt Nam nằm dưới sự khống chế của Pháp (thời Pháp thuộc).

Theo Hiệp ước này, các dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, khu vực Đồng Nai, Đà Lạt, Darlac, Pleiku, Kontum không còn là công dân của Việt Nam (lãnh thổ Nam Bàn không thuộc Việt Nam) mà Nam Bàn trực thuộc vào chính quyền Pháp ở Nam Kỳ, theo đó mọi văn bản về thuế, luật lệ và hành chánh đều được viết bằng tiếng Chăm (tiếng Melayu Champa) và tiếng Pháp thay vì chữ Hán.

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/hieuky_ynghia1.jpg

Hình 2. Lễ ký kết Hiệp ước Quý Mùi tại Thuận An-Huế, ngày 25 tháng 8 năm 1883, trong đó: Trần Đình Túc (ngồi đầu bên trái), Francois Harmand (thứ 3 bên trái) và Nguyễn Trọng Hợp (người đứng bên phải). Ảnh: Sưu tầm.

 

https://baotanglichsu.vn/DataFiles/Uploaded/image/hiep%20dinh%20hamar/1_.jpg

Hình 3. Hiệp biện Đại học sĩ Trần Đình Túc (Chánh sứ) thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Harmand (Hiệp ước Quí Mùi-1883) với nước Pháp. Ảnh: Sưu tầm.

 

https://baotanglichsu.vn/DataFiles/Uploaded/image/hiep%20dinh%20hamar/02.gif

Hình 4. Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp thay mặt triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Harman (Hiệp ước Quí Mùi-1883) với nước Pháp. Ảnh: Sưu tầm.

 

https://baotanglichsu.vn/DataFiles/Uploaded/image/hiep%20dinh%20hamar/3_.gif

Hình 5. Tổng ủy Jules Harman, đại diện nước Pháp ký Hiệp ước Quí Mùi-1883 với triều đình nhà Nguyễn. Ảnh: Sưu tầm.

 

Nam Bàn thuộc Pháp (1946-1950)

Nước Nam Bàn từ năm 1946 đến 1950 là một khu tự trị đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của người Pháp mang tên “Pays Montagnard du Sud Indochinois” (Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương).

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Pháp phải đương đầu với cao trào đấu tranh của người Việt ở Bắc Kỳ. Cao ủy đông Dương Georges Thiery d’Argenlieu tìm cách vô hiệu hóa cao trào bằng cách thông qua việc thành lập Cộng hòa Tự trị Nam Kỳ và thành lập một lãnh thổ tự trị dành cho người Thượng, gọi là “Pays Montagnard du Sud Indochinois” (Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương), viết tắt là PMSI; tiếng Rhadé “Ala Čar Dega Krĭng Dhŭng Mnai”, đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của người Pháp (biệt lập với người Kinh ở đồng bằng).

Xứ Thượng "Čar Degar" trực thuộc chính phủ Liên bang Đông Dương (Liên bang Đông Pháp) với 5 tỉnh Cao nguyên Trung phần, gồm: Đồng Nai Thượng, Lang Biang, Pleiku, Darlac, Kontum. Thủ phủ của Xứ Thượng sơ khởi đặt tại Đà Lạt, sau đó chuyển tới Ban Mê Thuột.

Hình 6. Nước Nam Bàn từ năm 1946 đến 1950 là một khu tự trị đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của người Pháp mang tên “Pays Montagnard du Sud Indochinois” (Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương).

---***---

Nam Bàn thuộc Pháp (1951-1954)

Nước Nam Bàn từ năm 1951 đến 1954 là một khu tự trị đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của người Pháp mang tên “Hoàng Triều Cương Thổ” (Domaine de la Couronne).

Ngày 21/5/1951, “Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương” được Pháp nhìn nhận trực thuộc Hoàng Triều Cương Thổ (Domaine de la Couronne) theo Dụ số 6 của Quốc trưởng Bảo Đại, nhưng được hưởng một qui chế đặc biệt: không ai có quyền sang nhượng lãnh thổ này cho một quốc gia khác nếu không có sự đồng ý của nhà vua và cộng đồng người Thượng được xác nhận không phải là người Kinh (non-annamites).

Hoàng Triều Cương Thổ trên danh nghĩa là một lãnh thổ tự trị, trong thực tế mọi quyền quyết định đều do người Pháp chủ động. Nói cách khác, Cao Nguyên là một vùng tự trị trực thuộc Pháp.

Hình 7. Nước Nam Bàn từ năm 1951 đến 1954 là một khu tự trị đặt dưới quyền quản lý trực tiếp của người Pháp mang tên “Hoàng Triều Cương Thổ” (Domaine de la Couronne).

Ngày 21/7/1954, hiệp định Genève ký kết và định chế Hoàng Triều Cương Thổ bị giải tán và “Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương” được giao lại cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, do thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo ngày 11/3/1955. Từ đây Ngô Đình Diệm tuyên bố bải bỏ các tòa án phong tục và quyền làm chủ đất đai của người Thượng trên Cao Nguyên.

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/baodai_vua.png

Hình 8. Bảo Đại (22/10/1913- 31/7/1997), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, là vị hoàng đế thứ 13 và là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, cũng là vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam. Ảnh: Sưu tầm.

---***---

Nam Bàn thuộc Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975)

Tiền thân của Việt Nam Cộng hòa là Quốc gia Việt Nam do Pháp thành lập năm 1949, trong thời kỳ Chiến tranh Đông Dương. Ngày 26 tháng 10 năm 1955 thì Quốc gia Việt Nam chính thức đổi tên thành Việt Nam Cộng hòa (tiếng Anh: Republic of Vietnam; tiếng Pháp: République du Viêt Nam, viết tắt RVN) là một nhà nước tồn tại từ năm 1955 đến năm 1975.

Hình 9. Việt Nam Cộng hòa (tiếng Anh: Republic of Vietnam; tiếng Pháp: République du Viêt Nam, viết tắt RVN) là một nhà nước tồn tại từ năm 1955 đến năm 1975.

Khi hiệp định Genève, ký ngày 21-7-1954 bắt đầu có hiệu lực, định chế Hoàng Triều Cương Thổ và “Xứ Thượng Miền Nam Đông Dương” giải tán, Ngô Đình Diệm sáp nhập phần đất này vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa là để xác nhận chủ quyền và vai trò lãnh đạo của người Kinh trên Cao Nguyên miền Trung và bắt đầu dùng chính sách Tây tiến.

Quyết định xóa bỏ Hoàng Triều Cương Thổ dành cho người Thượng cũng là xóa bỏ “Quy Chế Harmad” dành cho cộng đồng người Chăm sinh sống dọc vùng duyên hải các tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ đầu năm 1955 trở đi, chính quyền Ngô Đình Diệm đã đưa khoảng 800.000 di dân miền Bắc trong đó có hơn 20.000 thiểu số từ các miền thượng du Bắc Việt, lên Cao Nguyên lập nghiệp. Những di dân gốc Kinh trên Cao Nguyên sống tập trung trong các thị trấn lớn, dọc các quốc lộ và vùng Phan Rang, Phan Rí. Sự hiện diện quá đông đảo của những người di dân làm đảo lộn lối sống cổ truyền của những nhóm dân cư bản địa đã có mặt từ trước, sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Thượng và người Chăm mai một dần với thời gian.

Thêm vào đó, chính sách Việt hóa triệt để của chính quyền Ngô Đình Diệm đã để lại nhiều vết thương khó hàn gắn, nhất là với người Thượng. Đây là khúc quanh lịch sử đã tạo ra các biến cố dẫn đến sự vùng dậy đòi quyền sống của các dân tộc Thượng và Chăm. Hai cộng đồng này không chống lại sự lệ thuộc vào chính quyền Việt Nam, họ chỉ muốn chính quyền Việt Nam Cộng Hòa nhìn nhận và tôn trọng những quyền cổ truyền như quyền làm chủ đất đai, quyền phát triển tiếng nói và phong tục tập quán của họ, nhưng không thành.

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/Ngo_dinh_diem_z.png

Hình 10. Ngô Đình Diệm, 3 tháng 1 năm 1901 – 2 tháng 11 năm 1963, là một chính khách người Việt Nam. Ông từng làm quan triều Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tống thống Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1955 sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại, cho đến khi bị lật đổ vào năm 1963. Ông cũng là lãnh tụ của Đảng Cần lao Nhân vị, đảng cầm quyền chính thức của miền Nam Việt Nam.

Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên bố bải bỏ các tòa án phong tục và quyền làm chủ đất đai, một số trí thức và nhân sĩ Thượng (đa số xuất thân từ các trường do người Pháp đào tạo) đã cùng nhau họp lại bàn thảo về sự sống còn của dân tộc họ dưới chế độ Ngô Đình Diệm.

Đầu năm 1955, là năm khởi động tiếng chuông báo hiệu của sự vùng dậy, những người này thành lập một tổ chức mang tên “Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Cao Nguyên”. Y Mot Nie Kdam được bầu làm chủ tịch, Y Thih Eban làm tổng thư ký.

Tháng 3 năm 1955, Y Thih Eban thảo một văn thư gởi thủ tướng Ngô Đình Diệm yêu cầu: Tôn trọng phong tục tập quán và truyền thống tín ngưỡng của dân tộc thiểu số; áp dụng chính sách công bằng giữa dân tộc thiểu số và người Kinh; trả lại cho người Thượng tất cả đất đai mà người Kinh hay chính phủ đã trưng dụng.

 

Hình 11. Trung tướng Nguyễn Khánh (8/11/1927 – 11/1/2013) là một chính khách Việt Nam Cộng Hoà, ông từng giữ chức vụ Nguyên thủ quốc gia (Quốc trưởng) và thủ tướng của Việt Nam Cộng hòa và kiêm luôn các chức Tổng tư lệnh và Tổng Tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong giai đoạn 1964-1965.

Chẳng những không trả lời, tổng thống Ngô Đình Diệm đắc cử ngày 23 tháng 10 năm 1955, ban hành những biện pháp khắc khe hơn đối với người Thượng: Phủ nhận quyền sở hữu đất đai cổ truyền; bãi bỏ các tòa án phong tục; cấm dậy thổ ngữ; đưa hàng trăm ngàn người Kinh lên Cao Nguyên khai thác các vùng đất mới.

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/paul_null_z.png

Hình 12. Paul Nưl Tổng trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng Hòa. Nhiệm kỳ: 9 tháng 12 năm 1967 – 16 tháng 6 năm 1971.    

Quá thất vọng, đầu năm 1958, những người lãnh đạo Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Cao Nguyên thành lập một ủy ban điều hành mới để tìm một phương pháp đấu tranh hữu hiện hơn. Ông Y Bham Enoul được ủy nhiệm làm chủ tịch. Ban lãnh đạo mới tập trung mọi nổ lực vào việc nghiên cứu một chiến lược khả dĩ tạo ra một sức mạnh gồm nhiều tiếng nói của toàn thể các sắc tộc Thượng, được tôn trọng và được lắng nghe, không những ở trong nước mà cả ở ngoài nước, nghĩa là phải có tầm vóc quốc tế.

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/nay_luett_z.png

Hình 13. Nay Luett Tổng trưởng Bộ Phát triển Sắc tộc Việt Nam Cộng Hòa. Nhiệm kỳ: 16 tháng 6 năm 1971 – 30 tháng 4 năm 1975.

 

Ngày 1tháng 5 năm 1958, ban chấp hành Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Cao Nguyên cho ra đời tổ chức Bajaraka (chữ viết tắt của bốn sắc tộc lớn: Bahnar, Jarai, Radé, Kaho). Đây là tổ chức chính trị đầu tiên của người Thượng chủ trương đấu tranh bất bạo động, yêu cầu tái lập lại quy chế “Hoàng Triều Cương Thổ” và chấm dứt mọi chính sách phân biệt đối xử với người thiểu số.

Hai tháng sau, ngày 25 tháng 7 năm 1958, Y Bham Enoul cùng 16 thành viên Bajaraka ký tên chung trong một văn thư gởi tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, đại sứ Mỹ, Pháp, Anh ở Sài Gòn, yêu cầu can thiệp với chính quyền Ngô Đình Diệm tái lập lại quy chế tự trị ở Cao Nguyên.

Ngày 8 tháng 9 năm 1958, Y Bham Enoul với tư cách là chủ tịch phong trào Bajaraka, gởi một văn thư chính thức cho tổng thống Ngô Đình Diệm, yêu cầu ban hành một chính sách mới cho người thiểu số. Hai ông Y Dhơn Adrong và Y Mot Nie đem thư này về Sài Gòn trao cho văn phòng phủ tổng thống. Nhận được thư, tổng thống Ngô Đình Diệm liền ra lệnh truy nã và bắt giam tất cả những người đã ký tên trong văn thư: các ông Paul Nưr, Y Thih Eban, Y Bham Enoul, Y Ju Eban, Nay Luett, ...

Hình 14. FULRO (Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Các Sắc Tộc Bị Áp Bức).

 

Ngày 26 tháng 11 năm1958, có tin đồn người Thượng sẽ nổi lên tấn công các ngục giam để giải thoát những thành viên Bajaraka bị bắt, chính quyền Sài Gòn liền đưa ông Y Bham Enoul về Huế giam và những thành viên Bajaraka khác về trại giam ở Sài Gòn, đồng thời thuyên chuyển những cán bộ, viên chức dân sự và quân sự, tình nghi có liên hệ với phong trào Bajaraka, về làm việc ở các tỉnh đồng bằng.

Ngày 1tháng 5 năm 1962, từ ngục giam, ông Y Thih Eban gởi một bức thư khác cho đại sứ Hoa Kỳ ở sài Gòn yêu cầu can thiệp với tổng thống Ngô Đình Diệm trả tự do cho tất cả thành viên Bajaraka bị giam giữ.

Ngày 18 tháng 8 năm 1962, 5 thành viên Bajaraka được trả tự do, đó là các ông Y Thih Eban, Nay Luett, Toneh Yoh, Siu Sip, Y Ju Eban, trong khi các ông Y Bham Eoul và Paul Nưr vẫn tiếp tục bị giam.

Tháng 6 năm 1963, ông Y Thih Eban nhậm chức quận trưởng Buôn Sarpa, một căn cứ quân sự của lực lượng đặc biệt Mỹ gần biên giới Campuchia mà đa số thành viên đều thuộc phong trào Bajaraka. Tại Buôn sarpa, Y Thih Eban giao cho thiếu úy Y Nam Eban trách nhiệm lãnh đạo quân sự cán bộ Bajaraka và cử Y Klong Nie sang Campuchia liên lạc viên với trung tá Les Kosem (một lãnh tụ gốc Chăm ở Nam Vang) tìm giải pháp đưa Y Bham Enoul ra khỏi ngục giam. Sau ngày gặp gỡ với Y Klong Nie ở thủ đô Nam Vang, Les Kosem hứa là sẽ dành cho Y Bham Enoul và thành viên Bajaraka một sự đón tiếp nồng hậu nếu Y Bham Enoul sang Campuchia.

Mọi chuyện đang được xúc tiến thì cuộc đảo chánh lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963 đã làm thay đổi toàn bộ thế cờ chính trị miền Nam Việt Nam, trong đó có người Thượng. Toàn bộ những người trong phong trào Bajaraka còn bị giam giữ đều được trả tự do.

Đầu tháng 3 năm 1964, Y Bham Enoul cử ông Y Klong Nie sang Campuchia gặp trung tá Les Kosem tại bờ sông Dam cạnh vùng biên giới Việt-Miên. Trong cuộc gặp gỡ này, Y Klong Nie yêu cầu Les Kosem phải bằng mọi cách bảo vệ tánh mạng những người lãnh đạo phong trào Bajaraka khi bị cảnh sát Việt Nam Cộng Hòa truy nã lần nữa.

Les Kosem nhờ Y Klong Nie giao tận tay Y Bham Enoul bức thư trả lời, theo đó Les Kosem bày tỏ lòng ngưỡng mộ của ông ta đối với sự hy sinh cao cả của ông Y Bham Enoul cho lý tưởng dân tộc, một người mà Les Kosem nhìn nhận là bậc đàn anh của dân tộc Champa, và hứa sẽ bằng mọi cách giúp các thành viên Bajaraka và Y Bham Enoul sang Campuchia một khi tình hình chính trị ở Việt Nam đưa họ vào ngõ cụt. Trong một cuộc trao đổi nội bộ, Y Dhơn Adrong, Y Nhuin Hmok và Y Nham Eban chấp nhận đưa các thành viên Bajaraka sang Campuchia hợp tác với Les Kosem.

Ngày 20 tháng 9 năm 1964, một số sĩ quan gốc Chăm và Khmer Krom thuộc quân đội hoàng gia Campuchia, do Les Kosem đứng đầu, tập trung một số cán bộ hành chánh và quân sự thành lập một mặt trận chung gọi là Front Unifié de Lutte des Racces Oprimées, viết tắt là FULRO (Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Các Chủng Tộc Bị Áp Bức). Trong thực tế Fulro là tập hợp của ba mặt trận:

- Mặt Trận Giải Phóng Campuchia Krom (lãnh thổ từ Sài Gòn đến Cà Mau)

- Mặt Trận Giải Phóng Campuchia Bắc (vùng Champasak ở Nam Lào)

- Mặt Trận Giải Phóng Champa (khu vực Cao Nguyên và đồng bằng duyên hải từ Phú Yên đến Phan Thiết).

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh/fulro%20flag1.png

 

Hình 15. Hiệu kỳ Fulro (Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Các Sắc Tộc Bị Áp Bức).

 

Để chính thức hóa liên minh chính trị này, những người lãnh đạo Fulro (phái đoàn Bajaraka, trung tá Les Kosem và trung tá Um Savuth, một lãnh tụ Khmer Krom) vẽ ra lá cờ Fulro đầu tiên hình chữ nhật gồm ba sọc: màu xanh da trời, màu đỏ và màu xanh lá cây. Trên sọc màu đỏ có ba ngôi sao màu trắng tượng trưng cho ba mặt trận của Fulro: Campuchia Krom, Campuchia Bắc và Champa.

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/Campa2.png

Hình 16. Hiệu kỳ Champa (Photo: Kauthara).

Hiệu kỳ Champa (tiếng Chăm: Dok Champa), gồm 9 sọc đỏ và trắng xen kẽ nhau nằm ngang đại diện cho tư cách bình đẳng và bên trái có một hình chữ nhật màu trắng xanh mang trăng lưỡi liềm (Aia Bulan) và ngôi sao 5 cánh (Batuk). Ngôi sao 5 cánh đại diện cho sự thống nhất giữa các tiểu bang như Indrapura, Amaravati, Vijaya, authara và Panduranga. Lưỡi liềm đại diện cho Hồi giáo là quốc giáo của Champa; nền xanh da trời tượng trưng cho sự thống nhất của nhân dân Champa; ngôi sao và lưỡi liềm trước đó màu vàng là màu hoàng gia Champa, nhưng nay Champa không còn vua nên đổi thành màu trắng (Quốc gia Hồi giáo không còn vương).

 

Trong suốt quá trình đấu tranh bằng vũ lực, mà hàng ngàn người Thượng, người Chăm đã hy sinh trên các chiến trường, mặt trận Fulro đã không đạt được mục tiêu đề ra là xây dựng một lãnh thổ “Cao Nguyên Champa tự trị”, nhưng tổ chức này đã đánh động được dư luận Việt Nam và nước ngoài quan tâm đến những đòi hỏi của cộng đồng người Thượng và Chăm trong quốc gia Việt Nam.

 

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/hk_gpcaonguyen1.jpg

Hình 17. Hiệu kỳ Mặt trận 1, mặt trận giải phóng Cao Nguyên Champa (Photo: Kauthara).

Hiệu kỳ có 9 sọc xanh và trắng, xanh biển (biểu tượng hòa bình) và trắng (biểu tượng niềm hy vọng) xen kẽ nhau nằm ngang đại diện cho tư cách bình đẳng. Phần bên trái có hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao đều màu trắng trên nền xanh lá cây (biểu tượng cho thịnh vượng), ngôi sao biểu tượng 5 tiểu bang Champa, lưỡi liềm đại diện cho Hồi giáo là Quốc giáo Champa. Phần bên phải màu đỏ (biểu tượng cho đấu tranh và lòng dũng cảm).

Năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã tỏ ra đặc biệt quan tâm tới tương lai người gốc Thượng và Chăm bằng cách tiến cử nhiều nhân sĩ xuất thân từ hai cộng đồng này vào những chức vụ cao trong chính quyền và thành lập nhiều định chế chính trị do người thiểu số đứng đầu (bộ phát triển sắc tộc, hội đồng sắc tộc, quận trưởng, xã trưởng), ngoài ra họ còn tham gia trực tiếp vào nhiều định chế như quốc hội, thượng nghị viện, hội đồng tỉnh và tòa án.

Hình 18. Thiếu Tướng Les Kosem – Haji Les Kosem (bí danh Po Nagar) sinh ngày 27-3-1927 tại Kompong Cham, người Campuchia gốc Chăm. Ông là sĩ quan quân đội Campuchia có vai trò quan trọng trong chiến tranh Đông Dương lần thứ hai và những cuộc nội chiến ở Campuchia. là lãnh tụ phong trào Fulro, một nhân vật đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc Champa bị áp bức, đã từng đóng vai trò quan trọng trên bàn cờ chính trị Đông Dương vào những năm 1964-1975.

 

Hình 19. Y Bham Enuol sinh năm 1923 là sáng lập viên của phong trào Bajaraka (1958-1964), sau đó Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Champa (1964-1975) tức là một thành viên nằm trong tổ chức đấu tranh liên hiệp mang tên là Fulro (Mặt Trận Thống Nhất Đấu Tranh Của Các Sắc Tộc Bị Áp Bức) có trụ sở tại Campuchia. Ngày 17-4-1975, Khơ Mer Đỏ chiếm thủ đô Phnom-Penh.

 

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/HK_Campa3.jpg

Hình 20. Y Bham Enoul- dưới lá cờ giải phóng Champa.

 

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/hk_gpcaonguyen3.jpg

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/nha_san_taynguyen.png

Hình 21, 22. FULRO và Hiệu kỳ Mặt trận 1 giải phóng Cao Nguyên Champa tại biên giới Tây Nguyên-Campuchia. Hình 15. Hiệu kỳ Mặt trận 1 giải phóng Cao Nguyên Champa treo trước nhà Sàn Ede tại buôn Ako Dhong-Daklak. Ảnh chụp 2005 bởi Putra Podam.

 

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/flag_campa_z.jpg

https://kauthara.org/files/Linh%20Tinh2/po_dharma_z.jpg

Hình 23, 24. Hiệu kỳ Mặt trận 1 giải phóng Cao Nguyên Champa (phải), và Hiệu kỳ Champa (trái). Ảnh: Putra Podam.

---***---

Nam Bàn thuộc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (từ 1976-nay)

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, thường được gọi là Ngày 30 tháng Tư, Ngày giải phóng miền Nam, Thống nhất Đất nước (tên gọi của Nhà nước Việt Nam) hoặc ngày Sài Gòn sụp đổ (Fall of Saigon, cách gọi của báo chí phương Tây), hoặc Ngày Quốc hận và Tháng Tư Đen (trong cộng đồng người Việt chống Cộng ở nước ngoài).

Nước Nam Bàn thực sự bị mất từ năm 1975 (gần 50 năm). Từ sau 1975 người Việt bắt đầu ồ ạt di dân lên Cao Nguyên khoảng năm 2005. Từ chính sách di dân của người Việt, rừng bị tàn phá trầm trọng ảnh hưởng đến đời sống của cư dân bản địa nơi đây. Từ hệ lụy trên có nhiều cuộc biểu tình xảy ra, đặc biệt có ba cuộc biểu tình mà báo chí thế giới quan tâm.

Hình 25. Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 

Ngày 2 tháng 2 năm 2001, biểu tình bất bạo động diễn ra tại Daklak, Gia Lai, Kon Tum với đa số là cư dân bản địa thuộc nước Nam Bàn (Cao Nguyên Champa).

Ngày 10 tháng 4 năm 2004, biểu tình Tây Nguyên 2024 (Bạo loạn Tây Nguyên 2004 hay Thảm sát Phục Sinh) là một cuộc biểu tình của dân tộc bản địa (người Thượng) trên Tây Nguyên tại Dakak, Dak Nong, Gia Lai, Kon Tum, …Người Thượng tuyên bố biểu tình nhằm mục tiêu đòi quyền lợi đất đai và tự do tôn giáo cùng quyền tự trị. Chính phủ Việt Nam thông cáo biểu tình nhằm thành lập Nhà nước Degar tự trị, đòi đất, đòi tự do tôn giáo do Tổ chức Quỹ người Thượng của ông Ksor Kok phát động. Sau sự kiện, nhiều người Thượng bị bắt giữ, số lượng thương vong không được thống kê rõ ràng, khủng hoảng tị nạn xảy ra khi người Thượng vượt biên sang Thái Lan và Campuchia. Chính phủ Việt Nam chịu sức ép từ quốc tế trong xử lý khủng hoảng tị nạn người Thượng; nhiều tổ chức quốc tế cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền và tự do tôn giáo; Việt Nam bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa vào danh sách Các quốc gia đang quan tâm đặc biệt về tôn giáo. Phía chính quyền và truyền thông Việt Nam thời điểm đó cáo buộc biểu tình là bạo loạn diễn biến hòa bình, đồng thời lực lượng công an nhân dân Việt Nam tiến hành trấn áp các cá nhân tham gia FULRO sau sự kiện.

Ngày 11 tháng 6 năm 2023, một nhóm người không xác định danh tính có mang theo vũ trang đã tấn công trụ sở Ủy ban nhân dân hai xã Ea Tiêu và Ea Ktur thuộc huyện Cư Kuin, tỉnh Daklak khiến 9 người tử vong, trong đó có 4 công an, 1 Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, 1 Bí thư Đảng ủy xã và 3 dân thường, 2 người khác bị thương, đồng thời đốt phá nhiều tài liệu, giấy tờ và tài sản. Theo quan điểm của chính quyền Việt Nam, đây là một vụ tấn công khủng bố có tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Tính đến ngày 20 tháng 7, đã có 90 người bị khởi tố, bắt tạm giam vì có liên quan đến các vụ tấn công. Theo cơ quan công an, chủ mưu bị bắt giữ là Y Sôl Niê, quê Gia Lai, sinh sống tại TP Buôn Ma Thuột, có quốc tịch Hoa Kỳ.

Hình 26. Bản đồ Việt Nam- Đông Nam Á.

 

LINK: Tin liên quan

1. Nước Nam Bàn (tiểu quốc Jarai)

2. Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea) khác danh xưng "Mih Ai"

3. Kỷ niệm 980 năm Vương phi Mỵ Ê (H’Bia Mamih Ea) 1044-2024

4. Công chúa Hadrah Hajan Kapak tộc Rhade trở thành thứ hậu Bia Than Can của vua Po Rome

5. Po Krung Garai (Po Klong Garai) vua tộc người Rhade và Jarai

6. Chế Bồng Nga vua liên bang thuộc kinh thành Vijaya-Degar là tộc người Raday và Jarai

7. Chế Mân vị vua Champa tộc người Raday (Rhade, Jarai)

8. Champa (ꨌꩌꨛꨩ - چمڤا) và hiệu kỳ Champa

9. Quá trình hình thành hiệu kỳ Fulro và ý nghĩa

10. Vì sao FULRO mang tên “Mặt trận giải phóng Champa” và hiệu kỳ Hồi giáo

11. Chế Bồng Nga và Po Binnasuar là hai nhân vật khác nhau