Nhà nước Lâm Ấp (Linyi) tiền thân vương quốc Champa (192-757)

Written by Putra Podam
In category Nghiên cứu
Aug 6, 2024, 11:39 PM
Ts. Putra Podam (Văn Ngọc Sáng)
Email: putrapodam@gmail.com
Facebook: Putra Podam
 
 

1. Lâm Ấp (192 - 757)

Theo sử liệu Trung Quốc, quốc gia cổ Champa đã được biết đến đầu tiên với sự ra đời và tồn tại của Vương triều Simhapura hay còn gọi là vương quốc Lâm Ấp (Chữ Hán: 林邑; Bính âm: Linyi) mà vị vua đầu tiên là Khu Liên, bắt đầu từ năm 192 ở khu vực Quảng Bình đến Quảng Nam, sau cuộc khởi nghĩa của người dân địa phương chống lại nhà Hán. Trong nhiều thế kỷ sau đó, quân đội Trung Quốc đã nhiều lần cố gắng chiếm lại khu vực này nhưng không thành công.

Lâm Ấp là vương quốc khởi đầu cho lịch sử Champa độc lập đã nhanh chóng hấp thu nền văn minh Ấn Độ. Người Melayu Champa có chữ viết riêng, chữ viết Champa cổ là hệ thống ký tự có nét vẽ riêng, xuất phát từ chữ viết Devanagari của Ấn Độ (Lafont, 2011), xuất hiện lần đầu tiên trên bia ký Võ Cạnh (Nha Trang) vào thế kỷ thứ 2 (Filliozat, 1969).

Tiếng Chăm hay tiếng Melayu Champa là hệ ngôn ngữ thuộc gia đình Đa Đảo “Autronesian”. Tiếng Chăm có mối quan hệ khăng khít với tiếng Mã Lai. So với tiếng Mã Lai người ta đã tìm thấy dấu tích vào thế kỷ thứ 7, còn tiếng Melayu Champa đã xuất hiện lần đầu tiên trên bia kí Đồng Yên Châu (Trà Kiệu) vào thế kỉ thứ 4 (Al-Ahmadi, 1998; Coedes, 1939).

Các tài liệu Trung Quốc ghi nhận cái chết vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là vào khoảng năm 756.

 

1.1. Triều vương thứ nhất (192-336): Lâm Ấp

Sri Mara (Khu Liên), trị vì (192-220). Ông là người sáng lập vương quốc Lâm Ấp (tiền thân vương quốc Champa). Ông vốn là quan chức địa phương của Xianglin (Tượng Lâm), thuộc quyền cai trị của triều đại Đông Hán Trung Quốc. Ông được biết đến và ghi trong lịch sử Trung Quốc tên là Ou Lian hay Zhulian, tên theo Hán văn là Khu Liên.

Khu Liên, sinh ra ở Tượng Lâm (Xianglin) ngày nay là tỉnh Thừa Thiên Huế, miền Trung Việt Nam), đây là một khu vực căng thẳng giữa nhà Hán và người bản xứ Lâm Ấp (Linyi).

Năm 190, Khu Liên người Tượng Lâm nổi dậy giết thứ sử Chu Phù và chiếm huyện thành. Năm 192 sau Công nguyên, ông đã đánh bại quan thái thú Trung Quốc và tự xưng là vua của nước Lâm Ấp (Linyi). Đây được coi là năm thành lập chính thức của vương quốc Champa được các nước trên thế giới công nhận, mặc dù truyền thuyết cho rằng Champa được thành lập sớm hơn từ trước Công nguyên.

Lâm Ấp độc lập là một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu gặp gỡ giữa hai nền văn minh Trung Quốc và Ấn Độ tại bán đảo Đông Dương. Đồng thời, đây là lần thứ hai (sau ba nước Cao Ly, Bách Tế, Tân La ở quận Lạc Lãng tách ra khỏi lãnh thổ nhà Hán), một vùng thuộc lãnh thổ của “thiên triều” tức quận Nhật Nam tự tách ra.

Tên gọi Khu Liên có rất nhiều tranh cãi. Trong sử sách Trung Hoa ghi Khu Liên là vị vua đầu tiên của Lâm Ấp. Nhiều sử gia cho rằng Khu Liên thuộc dòng dõi của bộ tộc Dừa ở phía bắc Champa. Tuy nhiên, Khu Liên có thể không phải là tên của một người mà là cách gọi kính trọng người có ngôi vị cao trong một định chế tập thể. Đối với người dân địa phương, “Khu” không phải là tên riêng mà là tước vị của một tộc trưởng, khu trưởng hay vua phiên âm từ chữ “Kurung hay Krung”.

Trước đó, năm 137, các quan đô hộ nhà Hán gọi quân khởi nghĩa ở Tây Quyển (Quảng Bình) là “rợ Khu Liên”. Như vậy Khu Liên có thể là tên gọi chung những người không cùng văn hóa với người Hán ở phía nam Giao Chỉ. Tên gọi Khu Liên không liên quan gì đến danh xưng Sri Mara (tên một vị vương tôn người Champa khác cùng thời kỳ, con bà Lona Lavana ở Panduranga) tìm thấy trên một bia ký ở làng Võ Cạnh (nay thuộc xã Vĩnh Trung), Nha Trang.

 

Phạm Hùng (220-280), tên theo bính âm (Pinyin) là Fan Hiong hay Fan Hsung, là cháu ngoại của Khu Liên (Sri Mara), lên làm vua nước Lâm Ấp. Ngài theo tôn giáo Hinduism.

Sử cổ Trung Hoa (Lương thư) cho biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gởi phái bộ đến thống đốc Quảng Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao. Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là cuộc dấy binh của bà Triệu năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu, còn gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu nữ Mường cưỡi voi ra trận làm khiếp đảm quân địch. Bà Triệu cũng là người theo chế độ mẫu hệ. Trong giai đoạn này con cái của Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu rất đông vì cuộc khởi nghĩa được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của người dân Champa.

Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận tước An Nam hiệu úy, tức thứ sư, sang Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa dùng mưu vừa làm áp lực chiêu dụ các bộ lạc nổi loạn; sau hơn 6 tháng cầm cự quân của Bà Triệu bị cô lập và bị đánh bại phai chạy về miền Nam lánh nạn. Lục Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo hàng ngàn thợ khéo tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những vùng đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm Ấp trở về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến xuống xa hơn.

Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ Lâm Ấp được nới rộng tới thành Khu Túc, cạnh sông Gianh phía bắc và tới Khánh Hòa (Kauthara) phía nam. Phạm Hùng cũng đã chinh phục và thống nhất các tiểu vương quốc khác nằm trong các lõm đất dọc duyên hai miền Trung: Amavarati (Quảng Nam), Vijaya (Quang Ngãi, Bình Định) và một phần lãnh thổ Aia Ru (Phú Yên).

Năm 271, Tao Huang là thống đốc của Tongkin, hay Giao Chỉ (Jiaozhi), báo cáo cho hoàng đế nhà Tấn (Jin Dynasty) rằng Phạm Hùng đã nhiều lần tấn công vào địa khu ông ta. Sau gần 10 năm chinh chiến, Phạm Hùng bị quân Tây Tấn (Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại. Con trai là Phạm Duật (Fan Yi) lên ngôi kế vị.

 

Phạm Duật (280 - 336), tên gọi khác: Phạm Dật, tên theo bính âm là: Fan Yi, là con trai của vua Phạm Hùng, lên ngôi vua Lâm Ấp (Linyi), theo tôn giáo Hinduism. Năm 284, Phạm Duật lần đầu tiên cử sứ thần đến ngoại giao triều đình Hoàng đế Trung Quốc cầu hòa. Lâm Ấp được hòa bình và Phạm Dật trị vì 56 năm thì qua đời.

 

1.2. Triều vương thứ hai (336-420): Lâm Ấp

Phạm Văn (336-349), tên bính âm là Fan Wen, theo tôn giáo Hinduism, là tể tướng hay tổng chỉ huy quân đội của Phạm Duật (Fan Yi), sau cái chết của Phạm Duật vào năm 336, Phạm Văn (Fan Wen) đã chiếm lấy ngai vàng.

Phạm Văn không phải là người Lâm Ấp mà là một người gốc Hoa quê ở Dương Châu (bính âm: Yangzhou thuộc tỉnh Giang Tô), bị bán làm nô lệ cho một quan cai trị huyện Tây Quyển tên Pham Tương. Năm 15 tuổi, vì phạm tội, Phạm Văn trốn theo một thương gia người Lâm Ấp sang Trung Quốc và Ấn Độ buôn bán, nhờ đó đã học hỏi được kỹ thuật luyện kim và xây thành lũy của người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm 321, Phạm Văn trở thành người thân tín của Phạm Duật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy, dựng cung đài theo kiểu Trung Quốc, chế tạo chiến xa và vũ khí, nhạc khí, … và được thăng chức tể tướng.

Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt (rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Vua áp dụng văn minh Ấn Độ vào đời sống: cải tổ hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Độ, nhờ đó tổ chức chính quyền mang lại hiệu quả tốt; xây dựng thủ phủ tại Khu Lật (K'iu-sou, hay Thành Lồi, Huế).

Năm 340, Phạm Văn (Fan Wen) cử sứ giả đến nhà Đông Tấn của Trung Quốc xin cho sáp nhập quận Nhật Nam (địa danh Việt Nam thời Bắc thuộc), gồm các huyện Tây Quyển, Ty Canh, Chu Ngô, Lô Dung và một phần đất phía nam quận Cửu Chân (một địa danh cổ của Việt Nam) là huyện Hàm Hoan vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng bị từ chối.

Phạm Văn liền đưa quân tấn công vào Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ sử Hạ Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam quận Cửu Chân) làm biên giới phía bắc, cho xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần lãnh thổ từ đèo Ngang trở xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo Ngang là nơi xảy ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong suốt hai thế kỷ 4 và 5.

Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bại trận, Phạm Văn bị trọng thương và qua đời, con trai là Phạm Phật (Fan Fo) lên thay.

 

Phạm Phật (349-380), tên bính âm là Fan Fo, con trai của vua Phạm Văn (Fan Wen), lên làm vua Lâm Ấp, theo tôn giáo Hinduism. Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được nhiều sử gia cho là người mở đầu cho vương triều Gangaraja (Bắc Chiêm Thành). Vừa mới lên ngôi, Phạm Phật đã tấn công quân nhà Đông Tấn tại Nhật Nam và vây thành Cửu Chân.

 Năm 353, nhà vua Phạm Phật bị thống đốc Giao Chỉ của nhà Tấn (Jin) đánh bại phải chạy về phía tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thị xã Ba Đồn), thành Khu Túc bị chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại huyện Ty Canh gần sông Nhật Lệ Đồng Hới. Năm 359, quân Đông Tấn (nhà Tấn) chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc (thành cổ vương quốc Lâm Ấp, thành lớn thứ hai sau kinh đô Kandapurpura); Phạm Phật xin hòa và gửi sứ bộ sang Trung Quốc triều cống vào năm 372 và năm 377. Phạm Phật mất năm 380 (lịch Julius) nhường ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt.

 

Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt), trị vì (380-413). Tên bính âm: Fan Huda. Ông là con trai của Phạm Phật (Fan Fo). Lên ngôi với vương hiệu Dharmamaharaja, hiệu Sri Bhadravarman I, “Vua Pháp Luật Bhadravarman”. Ông là vị vua Lâm Ấp lên ngôi năm 380 là vị vua đầu tiên có thêm hậu tố varman. Người sáng lập vương triều Gangaraja. Cũng trong năm đó, nhà vua dời đô về Simhapura (tỉnh Quảng Nam). Theo tôn giáo Hinduism.

Ông cho xây nhiều đền, tháp và cung điện đều quay mặt về hướng bắc, tại Mỹ Sơn và Trà Kiệu. Bhadravarman I, là một học giả nổi tiếng, thông thạo cả bốn kinh Vệ Đà (Vedas) và là tác giả của một số văn khắc bằng tiếng Phạn (Sanskrit). Ông cho mời những người Balamon (Brahmins) uyên bác từ Ấn Độ (India) đến định cư tại vương quốc Champa.

Năm 399, Bhadravarman I (Phạm Hồ Đạt), tiến hành chiến dịch quân sự lên phía bắc giết thái thú Khổng Nguyên chiếm các tỉnh Nhật Nam (Rinan) và Cửu Chân (Jiuzhen) của Việt Nam. Ông tiếp tục cho xây dựng đền, tháp Champa dọc theo bờ biển phía bắc.

Từ năm 405 đến 413, ông liên tục giao chiến với thống đốc Du Xue của Trung Quốc. Trong lần đối đầu lần cuối, Bhadravarman đã biến mất không dấu vết sau khi bị thống đốc đánh bại. Hai người con trai của Bhadravarman I, là Chen Chen và Na Neng bị giết vào năm 413.

Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413, một người con của Phạm Hồ Đạt là Địch Chớn hay Địch Chân (Ti Chen), là một đạo sĩ Hindu được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (sông Gange hay sông Hằng bên Ấn Độ). Địch Chớn là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho em là Địch Khải (Ti Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch Khải sợ bị triều thần ám hại nên đã dẫn mẹ chạy trốn vào rừng.

 

Triều vương Gangaraja: Lâm Ấp và Simhapura

Gangaraja (Phạm Địch Chân), trị vì 413-? Vị vua Lâm Ấp, theo tôn giáo Hinduism. Tên gọi khác Phạm Địch Chớn hay Phạm Địch Chân (Ti Chen) là con trai của phạm Hồ Đạt. Ông là một đạo sĩ Hinduism được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (nghĩa là sông Gange hay sông Hằng bên Ấn Độ). Tên đầy đủ: Jaya Gangarajavarman I.

Năm 415, quân Lâm Ấp vào tiến đánh Giao Châu (Giao Châu là một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm miền đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu bao gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung quốc ngày nay), sau đó, Tuệ Đô đánh Lâm Ấp.

Gangaraja là một vị vua của Champa thời kỳ đầu, là người sáng lập triều đại Gangaraja (thường được gọi là triều đại Simhapura hoặc Gangesvara). Gangaraja là một người thông minh và dũng cảm. Ông lên ngôi vua Champa và cai trị một thời gian ngắn rồi thoái vị. Ông đích thân đi hành hương ở Jahnavi (sông Hằng) ở Ấn Độ.

Gangaraja nhìn sông Hằng sinh ra niềm vui lớn lao. Chuyến đi dài ngày của ông là nguyên nhân khiến đất nước lâm vào nội chiến. Người kế vị ông là cháu trai tên Manorathavarman (Fàn Wéndí).

 

Manorathavarman (Mã-nặc-lạp-đát-bạt-ma), trị vì (?-?). Tên bính âm: (Fan Wendi). Ông là cháu trai của Gangaraja (Phạm Địch Chân), thuộc Hoàng tộc Lâm Ấp. Manorathavarman là vị vua Lâm Ấp (Champa thời kỳ đầu), trị vì tại Thung lũng sông Thu Bồn vào khoảng thế kỷ thứ năm sau Công Nguyên.

Phạm Địch Chân (Gangaraja) theo tôn giáo Hinduism, ông sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời vì đam mê văn hoá Ấn Độ, nên đã nhường ngôi cho em là Phạm Địch Khải nhưng bị từ chối. Ngôi báu đành truyền cho Mã Nặc Lạp Đát Bạt Ma (Manorathavarman) nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang Lin) chống lại vì cho rằng người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng máu tinh khiết (tức đẳng cấp Brahman), nên bị Mã Nặc Lạp Đát Bạt Ma giết chết. Manorathavarman truyền ngôi cho người em là Phạm Địch Văn.

 

Gangarajavarman II (Dịch-lợi Phạm Địch Văn). ?- 420. Phạm Địch Văn kế vị người anh là Mã Nặc Lạp Đát Bạt Ma (Manorathavarman). Vua Lâm Ấp, theo tôn giáo Hinduism. Dưới triều đại của ông, nhà nước Lâm Ấp tiếp tục gặp khó khăn về vấn đề nội bộ. Sau cái chết của Phạm Địch Văn vào năm 420, Phạm Dương Mại I kế vị, chấm dứt triều đại Lâm Ấp thứ 2.

 

1.3. Triều vương thứ ba (420-530): Kandapurpura

Phạm Dương Mại I (421-431), tên thật là: Văn Địch, tên bính âm: Fan Yang Mai hay Yang Mah. Tên của ông có nghĩa là “Hoàng tử vàng”. Thân phụ là Phạm Địch Văn. Vị vua Lâm Ấp, theo tôn giáo Hinduism.

Sau nhiều năm nội bộ rối ren, ông đã lật đổ triều đại trước đó và chiếm lấy ngai vàng vào năm 421. Ông được triều đình Trung Quốc đã công nhận là vua Lâm Ấp. Theo nguồn Tấn Kinh (Chinese Book of Jin) và Tống Kinh (Chinese Book of Song), sau khi phát động cuộc đột kích bất thành ở Bắc Kỳ (Tonkin), ông đã xin đầu tư từ Trung Quốc vào năm 421. Năm 425, người Trung Quốc từ miền bắc đã đánh bại quân Lâm Ấp và buộc người Lâm Ấp phải cống nạp hàng năm. Trước khi qua đời năm 431, người được kế vị bởi con trai ông là Tou, người đã lấy họ của cha ông.

 

Phạm Dương Mại II (431-446), tên bính âm: Fan Yang Mai II, là con của Phạm Dương Mại I. Là vị vua Lâm Ấp theo tôn giáo Hinduism, một khu vực có thần dân Champa sinh sống từ năm 421 đến khoảng 446.

 Năm 431, nhân dịp rối loạn bên Trung Quốc khi nhà Lưu Tống lật đổ nhà Đông Tấn, Phạm Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến thuyền tấn công các làng ven biển tại cửa Thọ Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô (quận Nhật Nam và Cửu Chân) nhưng bị đánh bại, quân Tống chiếm thành Khu Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Chiêm Bất Lao (Cù Lao Chàm hay Pulau Cham thuộc Quảng Nam).

Tháng 5 năm 432, Phạm Dương Mại II cho sứ sang triều cống Lưu Tống Văn Đế và nhân tiện xin được cai trị Giao Châu nhưng bị vua Tống từ chối.

Năm 433, Fan Yang Mai II sau khi bị từ chối được cai trị Giao Châu đã chuyển hướng chống người Khmer, chiếm được huyện Panduranga và sáp nhập quận Panduranga của người Khmer.

Tháng 2 năm 436, Tống đế sai tướng Hoà Chi đưa quân đánh Lâm Ấp. Phạm Dương Mại II nghe tin, liền sai sứ xin giao nộp lại tất cả người Nhật Nam bị bắt và xin cống 1 vạn cân vàng và 10 vạn cân bạc. Vua Tống nhận cống, liện hạ chiếu bảo Hòa Chi: “Nếu Phạm Dương Mại thực sự có lòng thành, cũng cho quy thuận”. Hòa Chi nhận được chiếu, liền đóng quân ở Chu Ngô thuộc quận Nhật Nam, rồi sai Hộ tào tham quân của phủ Thứ sử Giao Châu là Khương Trọng Cơ đến gặp Phjm Dương Mại. Mại bắt giữ Khương Trọng Cơ làm tù binh. Hòa Chi thấy Khương Trọng Cơ bị bắt, liền khởi binh đánh thành Khu Ấp (trên hữu ngạn sông Gianh), khi đó đang được Phạm Phù Long trấn giữ. Phạm Dương Mại sai Phạm Côn Sa Đạt đem quân ứng cứu, nhưng bị hạ tướng của Hoà Chi là Tông Xác phục kích chém chết. Quân Tống vây thành Khu Túc đến tháng 5 thì phá được thành. Phạm Phù Long tử trận.

Quân Tống sau khi thắng trận, liền tiến đánh Tượng Phố (ở khoảng Trà Kiệu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam ngày nay). Phạm Dương Mại dốc toàn lực ra ứng chiến. Phạm Dương Mại dùng quân thiết tượng, tức là voi được bọc giáp kín mít, trước sau không hở đánh quân Tống. Hoà Chi cho người làm hình nộm Sư tử khiến voi sợ hãi mà chạy. Quân Champa bị đánh đại bại.

Trong lúc chạy trốn về phía nam, Phạm Dương Mại II chinh phục luôn các tiểu vương phía nam, thống nhất với lãnh thổ phía bắc. Năm 443, Phạm Dương Mại II về lại Khu Lật (Kandapurpura là một trong hai kinh đô của nước Lâm Ấp, kinh đô khác là Simhapura), và qua đời năm 446. Thống đốc Bắc Kinh (Tongkin) tiến hành đàn áp chống lại Champa, lãnh thổ phía bắc của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu Phạm Dương Mại II lại tranh chấp quyền hành.

 

Devanika (Phạm Thần Thành), trị vì (455-472), vị vua Lâm Ấp theo tôn giáo Hinduism. Tên gọi khác là Phạm Chút, tên bính âm: Fan Tou. Sau thời gian con cháu Phạm Dương Mại II tranh chấp quyền hành, năm 455 Phạm Trần Thành lên ngôi, hiệu Trần Thành (Devanika). Trung tâm chính trị vẫn tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng thêm một trung tâm văn hóa và tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn, Quảng Nam).

Dưới thời trị vì của ông, thần dân Champa vẫn thần phục và hàng năm phải nộp cống cho triều Lưu Tống (Trung Quốc). Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được mở rộng xuống phía nam đến tận sông Ba (Tuy Hòa), thuộc lãnh thổ Aia Ru (Phú Yên) và vùng núi phía tây lân cận Cao Nguyên (Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak (Nam Lào), nhiều bộ lạc người Thượng sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về triều cống. 

Năm 472, Phạm Đăng Căng Thuần giết vua Phạm Trần Thành cướp ngôi, nội bộ triều đình có biến động.

 

Jayavarman II (Phạm Đang Căng Thuần), trị vì (472-492), vua Lâm Ấp, theo tôn giáo Hinduism. Tên gọi khác là Phạm Đăng Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo). Năm 472, Phạm Đang Căng Thuần, con vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm Ấp, đã giết vua tiền nhiệm là Phạm Thần Thành để cướp ngôi. Giai đoạn này thần dân Lâm Ấp sống yên bình. Năm 492, tức 20 năm sau, Phạm Chư Nông là con trai vua Phạm Thần Thành đã trả thù và giết vua Phạm Đang Căng Thuần giành lại ngôi báu.

 

Phạm Chư Nông (492-498). Sau khi bị Phạm Đang Căng Thuần giết vua chiếm ngôi Lâm Ấp trong suốt 20 năm. Năm 492, Phạm Chư Nông giết Phạm Đang Căng Thuần trả thù cho vua cha và giành lại được ngôi báu. Ông được Nam Tề Vũ Đế (tên húy là Tiêu Trách, tên tự: Tuyên Viễn, biệt danh Long Nhi, là hoàng đế thứ hai của triều đại Nam Tề trong lịch sử Trung Quốc) phong làm vua Lâm Ấp. Năm 498, Phạm Chư Nông bị chết đuối do gặp bảo trong một chuyến đi sang Nam Tề. Phạm Văn Tẩn lên nối ngôi.

 

Phạm Văn Tẩn (498-510), tên khác là Phạm Văn Tổn (Fan Wen Kuoan), làm vua Lâm Ấp từ 498 đến năm 510. Thân phụ là vua Phạm Chư Nông bị bão đánh chìm trong một chuyến đi sang Nam Tề, Phạm Văn Tẩn trở thành vị tân vương của Lâm Ấp. Theo tôn giáo Hinduism.

 

Devavarman (Phạm Thiên Khởi), trị vì (510-526), theo tôn giáo Hinduism. Tên hiệu: Devavarman. Làm vua nước Lâm Ấp từ năm 510 đến năm 526. Năm 510, Lương Vũ Đế sai sứ đến gặp Devavarman và buộc thần dân Lâm Ấp phải cống nạp.

 

Vijayavarman (Phạm Bật Tôi Bật Ma), trị vì (526-529). Vị vua Lâm Ấp, theo tôn giáo Hinduism. Tên hiệu là Vijayavarman.

 

1.4. Triều vương thứ tư (529-757): Simhapura

Rudravarman I (Luật Đà La Bạt Ma), trị vì (529-572). Tên bính âm: Gaāoshì Lütuóluóbámó.

 Năm 529, triều đình Lâm Ấp phong Luật Đà La Bạt Ma (dòng dõi Địch Châu) lên làm vua Lâm Ấp (Linyi), tôn giáo Hinduism, là Tổng tư lệnh quân sự vùng duyên hải (Dudu Yanhai Zhujunshi), Tướng quân bình định phương Nam (Annan Jiangjun), hiệu Rudravarman I. Ông là một vị vua của Champa thời kỳ đầu. Rudravarman I là hậu duệ của vua Manorathavarman (Fàn Wéndí). Cha ông là một Hinduism, còn mẹ ông là cháu gái của Manorathavarman.

Năm 541, ông xâm chiếm tỉnh Cửu Đức (bính âm: Jiǔdé; Hà Tĩnh ngày nay). Năm 543, vua Rudravarman I đưa quân xâm chiếm quận Nhật Nam và tiến đến quận Cửu Đức của nước Vạn Xuân. Năm 554, Phạm Tứ (Pham Tu) là thần dân Lâm Ấp chạy trốn về phía bắc, gia nhập với Lý Bôn và trở thành tướng của Lý Bôn (Ly Bon) đã đưa quân đánh bại Rudravarman I, giành lại Cửu Đức.

Năm 577, Rudravarman I (Luật Đa La Bật Ma) qua đời, con là Prasastadharma lên kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chí (Sambhuvarman). Dưới thời Phạm Phạn Chí, văn hóa Lâm Ấp tỏa rộng khắp Đông Nam Á. Năm 598, nhà Tùy (một triều đại trong lịch sử Trung Quốc) chiếm đóng Lâm Ấp và phân chia Lâm Ấp thành ba châu: châu Hoan (Tỷ Cảnh- xứ Nghệ gồm Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), châu Ái (Hải Âm- Thanh Hóa ngày nay) và châu Trong (Khương).

 

Jaya Sambhuvarman (Phạm Phạn Chí), trị vì (572-629). Tên bính âm là Shang-bèi-bá-mā. Qua đời tại Simhapura vào năm 629. Con trai vua Rudravarman I. Theo tôn giáo Hinduism.

 Đăng cơ vua Lâm Ấp vào năm 572, sau khi vua cha Rudravarman I (Luật Đa La Bật Ma) qua đời. Jaya Sambhuvarman làm quốc vương Lâm Ấp giai đoạn (572-605) và quốc vương Champa giai đoạn (605-629). Dưới sự điều hành của Jaya Sambhuvarman, nước Lâm Ấp đạt tới đỉnh thịnh vượng, văn hóa bắt đầu lan tỏa khắp Đông Nam Á. Hành trạng của ông được xác thực bởi Nam Sử (là một quyển sách trong Nhị thập tứ sử của Trung Quốc do Lý Đại Sư viết) và Tùy Thư (sách lịch sử theo thể kỷ truyện trong 24 sách lịch sử Trung Quốc do nhóm sử quan Ngụy Trưng đời Đường biên soạn).

Năm 595 sau Công nguyên, vua Jaya Sambhuvarman gửi cống nạp cho nhà Tùy (Sui dynasty) của Trung Quốc, bởi Champa là một vùng đất trù phú nên nhà Tùy bắt đầu quan tâm.

Năm 598, nhà Tùy (Sui dynasty) khởi binh tiến đánh, quân của Jaya Sambhuvarman không kháng cự nổi đạo quân hùng hậu từ phương bắc. Nhà Tùy đô hộ Bắc phần của Lâm Ấp (tương ứng khu vực Thừa Thiên trở ra Bắc), đặt quan thứ sử Ôn Phóng Chi và đại tướng Giao Tuấn trấn thủ, chia xứ này thành ba lãnh địa Đảng Châu, Nông Châu, Xung Châu.

Năm 605, nhà Tùy do Dương Chiến (Yang Chien) sai tướng Lưu Phương (Liu Fang) tiến đánh kinh đô Kandapurpura. Quân của Jaya Sambhuvarman dùng voi chiến đối đầu quân Trung Quốc. Lúc đầu, đã đạt được một số thành công, nhưng quân của Lưu Phương (Liu Fang) đã đào mương và dùng cành cây che con mương. Những con voi hoảng sợ trước các con mương nên rút lui, gây rối loạn cho quân đội Jaya Sambhuvarman. Quân Lưu Phương tàn sát khủng khiếp, thành quách kiên cố hoàn toàn bị hủy diệt sau nhiều tháng giao tranh. Quân Lưu Phương đuổi quân Champa đến tận cột đồng Mã Viện (Ma Yuan). Từ thời điểm đó, vương quốc Lâm Ấp chính thức cáo chung sau 4 thế kỷ tồn tại.

Trong vòng tám ngày, quân lính Trung Quốc phá kinh đô và cướp hơn một nghìn cuốn sách Phật giáo, các tấm vàng kỷ niệm triều đại của mười tám vị vua trước đó. Nhà Tùy (Sui dynasty) lập tức lập khu hành chính ở Lâm Ấp và chia đất nước thành 3 quận: Tỷ Ảnh, Hải Âm và Tượng Lâm. Lưu Phương (Liu Fang), khắc một dòng chữ trên bia đá để kỷ niệm chiến thắng rồi khởi hành về Trung Quốc, nhưng trên đường đi Lưu Phương bị chết và một số binh lính cũng thiệt mạng vì gặp một trận dịch bệnh bùng phát. Nhà Tùy tiếp quản ba quận của Champa chỉ trong thời gian ngắn.

Vua Jaya Sambhuvarman quyết định bỏ kinh đô chạy ra biển xuôi thuyền vào Nam. Tại địa phận Quảng Nam, ông hạ lệnh gấp rút xây tân đô Simhapura, khai sáng thời đại mới, đặt tên nước là Champa, tên một loài hoa đẹp mọc nhiều ở Nam Trung Bộ, sự kiện này được Nam Sử gọi là Biệt lập kiến quốc.

Vua Jaya Sambhuvarman bắt đầu cho dựng lại khu đền Bhadresvara bằng gạch (gạch nung hay gạch đỏ) cho kiên cố để làm chốn tâm linh cho thần dân, ngôi đền này trước đó bằng gỗ và đã bị hủy hoại trong chiến tranh.

Sau khoảng 10 năm từ khi mất cố đô Kandapurpura (Thành Phật Thệ), thừa thế giai đoạn nhà Tùy suy yếu, vua Jaya Sambhuvarman phát động một cuộc tấn công thành công, thu hồi các lãnh địa phía Bắc đã mất trước đó, tái khẳng định quyền lực và giành lại Champa độc lập. Các vua nối ngôi Jaya Sambhuvarman tiếp tục khai phá lãnh thổ về phía Nam, vốn là nơi cư trú của các bộ lạc Cau (Kramukavamsa).

Hình 1. Sources: Asia 400 AD. From Wikimedia Commons, the free media repository. Bản đồ thế giới năm 400 Sau Công nguyên. Thời kỳ vương quốc Lâm Ấp (Linyi) tiền thần vương quốc Champa (192-1832).

 

Hình 2. Hiệu huy Champa (Bani Champa), có một hình tròn nền xanh da trời tượng trưng cho sự thống nhất của nhân dân Champa, bên trong chứa trăng lưỡi liềm (Aia Bulan) và hoa Champa là ngôi sao 5 cánh (Batuk). Ngôi sao 5 cánh đại diện cho sự thống nhất giữa các tiểu bang như Indrapura,  Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Trăng Liềm đại diện cho Hồi giáo là quốc giáo của Champa. Hoa Champa (ngôi sao 5 cánh) và trăng liềm trước đó màu vàng là màu hoàng gia Champa. Champa không còn vương nên đổi thành màu trắng, nhưng nhụy hoa Champa mãi màu vàng hoàng gia Champa.

 

Hình 3. Hiệu kỳ Champa (Hala dok Champa): Hiệu kỳ Champa (Dok Champa), gồm 9 sọc đỏ và trắng xen kẽ nhau nằm ngang đại diện cho tư cách bình đẳng và bên trái có một hình chữ nhật màu trắng xanh mang trăng lưỡi liềm (Aia Bulan) và ngôi sao 5 cánh (Batuk). Ngôi sao 5 cánh đại diện cho sự thống nhất giữa các tiểu bang như Indrapura,  Amaravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga. Lưỡi liềm đại diện cho Hồi giáo là quốc giáo của Champa; nền xanh da trời tượng trưng cho sự thống nhất của nhân dân Champa; ngôi sao và lưỡi liềm trước đó màu vàng là màu hoàng gia Champa, nhưng nay Champa không còn vua nên đổi thành màu trắng (Quốc gia Hồi giáo không còn vương).

 

LINK: Liên kết liên quan

1. Triều vương cuối cùng nhà nước Lâm Ấp (tiền thân Champa): 192 - 757

2. Triều vương kết thúc tiểu bang Panduranga

3. Virapura (Hùng tráng thành) kinh đô Hoàn Vương định đô tại Kauthara

4. Danh sách vua Champa (Champa king)

5. Champa và quốc hiệu Champa trong lịch sử

6. Po Allah (Yang Puku Vijaya Sri): vị vua Islam đầu tiên của Champa

7. Triều đại vua Indravarman III (918-960): Islam chính thức gia nhập hoàng gia Champa

8. Thần dân Champa không theo Buddhism (Phật giáo)

9. Lê Ðại Hành (Lê Hoàn) vua Đại Cồ Việt lần đầu tiên xâm chiếm Champa

10. Katip Sumat: Sự thật trong chủ thuyết thánh chiến Hồi giáo (1833-1834)